Cách Trận Lụt Nô-ê Giải Thích Sự Hình Thành Các Lớp Hóa Thạch
Hóa thạch thường được coi là bằng chứng chính cho thuyết tiến hóa. Nhưng tôi nghĩ Trận Lụt Thời Nô-ê là một giải thích tốt hơn. Nó giải thích (1) điều kiện tạo thành hóa thạch, (2) tư thế chết thường gặp ở khủng long hóa thạch, và (3) sự phân lớp các kỷ hóa thạch.

Hóa thạch chim Archaeopteryx trong tư thế chết thường gặp ở khủng long hóa thạch: đầu ngửa ra sau, đuôi duỗi ra, chân sau cong lại
I. Trận Lụt Thời Nô-ê Giải Thích Điều Kiện Tạo Thành Hóa Thạch [1]
Thuyết tiến hóa và học thuyết đồng nhất cho rằng những quá trình chậm rãi từ từ mà chúng ta thấy đang diễn ra ngày nay không chỉ gây ra cái chết và sự tuyệt chủng của các loại thực vật và động vật mà còn chôn vùi chúng trong các lớp trầm tích và cuối cùng sẽ cứng lại trong đá trầm tích (làm thành hóa thạch). Khẩu hiệu của học thuyết đồng nhất: “hiện tại là chìa khóa về quá khứ” phản ánh quan điểm của họ về nguồn gốc của những đặc điểm trong di tích đá hóa thạch.

Thuyết Tiến Hóa nghĩ rằng hóa thạch tạo thành do quá trình chôn lấp từ từ xác sinh vật sau khi chết. Nhưng thực tế, khi chết cá không chìm xuống và bị chôn, mà nổi lên và bị ăn thịt. [9]
Nhưng hãy để ý rằng rất ít hóa thạch hình thành ngày nay, và chỉ trong trường hợp xác chết được chôn vùi nhanh chóng trong nước. Ví dụ, điều gì sẽ xảy ra cho một con cá khi nó chết? Nó hoặc nổi lên trên mặt nước, hay chìm xuống đáy, nơi nó phân hủy và bị ăn bởi các loài ăn xác thối. Nhưng nhiều hóa thạch cá được bảo tồn nguyên vẹn đến nỗi thậm chí cả vảy và nội tạng cũng còn nguyên vẹn. Hiển nhiên là không có thời gian cho sự thối rữa và vi khuẩn làm việc. Ta có thể nói chắc chắn rằng có cái gì đó khác thường đã xảy ra để hình thành các hóa thạch này.

Để hóa thạch cá được hình thành, nó phải bị chôn vùi nhanh chóng dưới trầm tích do thảm họa (như Trận Lụt Nô-ê). Khi đó xác cá mới không bị phân hủy hay ăn thịt [9]

Hóa thạch Ichthyosaur đang sinh con. Nó hẳn phải bị chôn sống nhanh chóng lúc đang sinh con do thảm họa chứ không thể bị chết rồi chôn lấp từ từ.
Thêm nữa, hầu hết các hóa thạch đều xảy ra trong những nghĩa địa hóa thạch khổng lồ, nơi các loài từ những vùng cư trú khác nhau được trộn lẫn trong một ngôi mộ nước. Loại hóa thạch chủ yếu là của những loài động vật không xương sống ở biển nhưng chúng lại được tìm thấy ở trên các lục địa, bên trong các đơn vị đá trầm tích tạo thành do thảm họa (N.d: tạo ra do những quá trình bất thường như đá lở, bão lũ, di chuyển hàng loạt… dẫn tới 1 lượng trầm tích lớn tích tụ cùng một lúc).
Trong các loại hóa thạch khác nhau, cái nào cũng đòi hỏi phải được chôn vùi nhanh chóng và những điều kiện rất hiếm khi xảy ra ngày nay. Quá trình hình thành hóa thạch bao gồm:
1. Khoáng hóa (Mineralization): xảy ra khi một phần hay toàn bộ một xác sinh vật bị thay thế bằng khoáng chất, thường từng phân tử một khi nó phân hủy. Nó cần diễn tiến thời gian, nhưng không phải là thời gian trước khi chôn vùi (N.d: tức quá trình hóa thạch xảy ra sau khi chôn vùi, nhưng xác phải được chôn vùi rất nhanh để sự phân hủy /ăn thịt không kịp diễn ra). Sự hóa thạch xảy ra khi khoáng chất thay thế xác sinh vật là silica.
2. Than hóa (Carbonization): những sinh vật sống có lượng cacbon cao, và dưới điều kiện đặc biệt chỉ còn lại cacbon (than). Nó gồm các dải than dày cũng những lớp tàn tích than mỏng còn lại trong lớp đá chứa chúng. Quá trình này đòi hỏi sự cách ly nhanh chóng và nhiệt độ cao.
3. Hóa thạch dấu vết (impression): những hóa thạch phổ biến này xảy ra khi toàn bộ xác sinh vật bị thay thế bởi cùng loại vật liệu với đá chủ, chỉ để lại hình dạng của sinh vật. Những chi tiết được bảo tồn cho thấy không có thời gian cho sự phân hủy (N.d: tức xác sinh vật bị chôn vùi trong trầm tích ngay lập tức nên chưa bị phân hủy)
4. Hóa thạch vết phù du: những dấu thường thấy bao gồm hang giun, dấu chân động vật, cục phân hóa đá, và dấu hạt mưa. Tất cả chúng đều rất mỏng manh và cần được hóa thạch nhanh chóng để được bảo tồn.
5. Các bộ phận cứng: xương và vỏ được tìm thấy nhưng chúng thường gãy bể. Ví dụ, các chi xé ra từ khủng long, tìm thấy trong các nghĩa địa hóa thạch, là quy luật chung.
6. Các bộ phận mềm: rõ ràng chúng chỉ có thể tồn tại một thời gian rất ngắn nếu không được chôn vùi nhanh chóng. Chúng gồm: thịt, lông, da, vảy, mô thực vật, màu, và thậm chí cả mùi.
7. Các bộ phận đóng băng: chúng ngụ ý rằng nhiệt độ cực kỳ thấp đã giam cầm và đóng băng xác sinh vật cách nhanh chóng. Hiển nhiên điều này ngày nay không xảy ra ở quy mô nào.
Tất cả các loại hóa thạch trên (và những loại con có thể đề cập tới) đều đòi hỏi những hoàn cảnh đặc biệt có tính chất thảm họa và chôn vùi nhanh chóng. Trận Lụt Thời Nô-ê, thứ đã hủy diệt một thế giới đầy sự sống, là lời giải thích tốt nhất.
II. Trận Lụt Thời Nô-ê Giải Thích Tư Thế Chết Của Khủng Long Hóa Thạch [2]

Con khủng long Struthiomimus này chết trong tư thế khủng long chết kinh điển – đầu ngửa ra sau, đuôi duỗi ra, chân sau cong lại. Báo New Scientist đã nói rằng “Thực sự là có quá nhiều đến nỗi không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên.”
Hóa thạch xương khủng long và thằn lằn bay thường được tìm thấy ở tư thế đặc trưng như sau: đầu ngửa ra sau, chân sau cong, đuôi duỗi ra, như khủng long Struthiomimus ở đầu bài. “Tư thế khủng long chết” này cũng thấy ở các hóa thạch khác – nổi tiếng nhất là hóa thạch chim Archaeopteryx được hiển thị ở đây. Có rất nhiều hóa thạch được tìm thấy ở tư thế này đến nỗi một bài báo gần đây trên New Scientist đã nói rằng “Thực sự là có quá nhiều đến nỗi không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên.”
Điều này không phải là mới với các nhà cổ sinh vật học. Câu hỏi tại sao rất nhiều hóa thạch lại có tư thế này “đã làm đau đầu các nhà cổ sinh vật học hơn một thế kỷ”. Trong quyển sách xuất bản năm 1927 về khoa học khai quật (về cách các sinh vật chết bị chôn vùi và hóa thạch) của mình, nhà địa chất người Đức Yohannes Weigelt cho rằng “tư thế khủng long chết” là do các gân co lại khi động vật chết khô đi. Những người khác đã đề xuất “rơi xuống bùn và bị kẹt”, chết trong khi ngủ, tử thi cứng, mất nước trong nước muối, và bị kéo vào vị trí do nước chảy.
Nhưng với nhà cổ sinh vật học Cynthia Marshall Faux, thuộc Bảo Tàng Rockies ở Montana, Hoa Kỳ, không có ý tưởng nào trong số này là đúng… Cô đã đưa các lý thuyết này vào thử nghiệm nghiêm túc, và chẳng cái nào đúng thực tế… Thay vào đó, cô biết rằng động vật chết vì bị đầu độc hoặc ô tô đâm thường có tư thế này khi vẫn (sống thoi thóp)… Vậy nên với cô, chỉ có một lời giải thích khả thi: cơn hấp hối. Cô và các bác sĩ thú y khác khẳng định rằng động vật rơi vào “tư thế khủng long chết” ngay trước khi chết (không phải sau đó) vì co thắt cơ do hệ thần kinh trung ương bị trục trặc nghiêm trọng. Nói tóm lại là do thiếu oxy. Vậy, điều gì có thể đã gây ra chết ngạt ở các sinh vật hóa thạch được bảo quản tuyệt đẹp trong “tư thế khủng long chết”?

Trận Lụt Thời Nô-ê giải thích cách đơn giản lý do chết ngạt gây ra “tư thế khủng long chết”
Dù Marshall Faux [và đồng sự] có thể không muốn thừa nhận điều này, Kinh Thánh nói về một sự kiện thảm khốc – trên quy mô toàn cầu – giải thích cách đơn giản tư thế chết của rất nhiều hóa thạch mà họ đã nghiên cứu. Trận Lụt Thời Nô-ê đã tàn phá hoàn toàn, vì “tất cả các loài có hơi thở trong lỗ mũi, tức là các loài sống trên đất liền, đều chết hết. Ngài đã diệt sạch mọi sinh vật trên mặt đất, từ loài người cho đến loài thú, loài bò sát, và loài chim trời. Tất cả đều bị quét sạch khỏi đất, chỉ còn lại Nô-ê và các loài ở với ông trong tàu mà thôi.” (Sáng Thế Ký 7:22–23).
Cơn hấp hối đau đớn của các sinh vật đó vẫn có thể được thấy ngày nay – một minh chứng cho sự chôn vùi nhanh chóng dưới những lớp bùn trầm tích cứng lại đã ngăn cản vi khuẩn phân hủy và động vật ăn thịt. Đây hẳn là một di sản để lại không thể nhầm lẫn mà mọi người khắp nơi cần suy ngẫm (Lu-ca 17:26–30, 2 Phi-e-rơ 3:3–7,15).
“Trong thời Nô-ê thể nào thì trong ngày Con Người cũng thể ấy: Người ta ăn uống, cưới gả, cho đến ngày Nô-ê vào tàu, rồi nước lụt tràn đến hủy diệt tất cả.” (Luca 17:26-27)
III. Trận Lụt Thời Nô-ê Giải Thích Sự Phân Lớp Các Kỷ Hóa Thạch [3]
Các nhà cổ sinh vật học (các nhà nghiên cứu hóa thạch) phân chia bộ di tích hóa thạch thành bốn kỷ căn bản: (1) Kỷ Đại Tân Sinh (Cenozoic) [4], những hóa thạch được tìm thấy ở các lớp đá trên cùng của trái đất, được hình thành gần đây nhất. (2) Kỷ Đại Trung Sinh (Mesozoic) [5] bên dưới lớp hóa thạch kỷ Đại Tân Sinh. (3) Kỷ Đại Cổ Sinh (Paleozoic) [6] bên dưới lớp kỷ Đại Trung Sinh. Và cuối cùng là một số ít hóa thạch được tìm thấy bên dưới các hóa thạch kỷ Đại Cổ Sinh, các hóa thạch (4) kỷ Tiền Cambri (Precambrian) [7] – cổ nhất.

Các lớp hóa thạch chia theo các kỷ theo cổ sinh vật học theo Thuyết Tiến Hóa. (N.d: con số hàng trăm triệu/hàng tỷ năm chắc do suy luận theo tốc độ hình thành trầm tích từ từ ngày nay, mặc định tốc độ này xưa nay không đổi và không có các thảm họa gây chôn vùi hàng loạt như Trận Lụt Nô-ê. [10])
Trong khi các nhà tiến hóa lập luận rằng các di tích hóa thạch được tạo thành qua hàng trăm triệu năm, Kinh Thánh dạy rằng trái đất chỉ mới vài ngàn năm tuổi. Vậy nên thay vì là một bản ghi nhận đời sống và tiến hóa qua hàng trăm triệu năm, hầu hết di tích hóa thạch ghi lại cái chết và sự phán xét của Đức Chúa Trời trong Trận Lụt Thời Nô-ê dài 1 năm. Di tích hóa thạch là một nghĩa địa khắp toàn cầu.

Giải thích sự hình thành các lớp hóa thạch theo thứ tự chôn vùi trong Trận Lụt Thời Nô-ê: nước lụt nhanh trào dâng từ biển lên, chôn vùi từ biển vào bờ, từ thấp lên cao. Khi chạy trốn nước dâng, bò sát khủng long chạy chậm nên ở lớp dưới, động vật có vú chạy nhanh hơn lên lớp trên. Càng lên cao càng ít bị chôn vùi nên ít có hóa thạch.
Các nhà cổ sinh vật học tin Thuyết Sáng Thế tin rằng các hóa thạch kỷ Tiền Cambri là hóa thạch hình thành từ Tuần Lễ Tạo Hóa (Sáng Thế Ký 1) đến trước Trận Lụt Thời Nô-ê (khoảng 1656 năm [8]). Các hóa thạch kỷ Đại Cổ Sinh và Đại Trung Sinh (và có thể một vài hóa thạch kỷ Đại Tân Sinh) được tin là được hình thành trong Trận Lụt Thời Nô-ê vài ngàn năm trước. Nhiều hóa thạch kỷ Đại Tân Sinh có lẽ được hình thành sau Trận Lụt Thời Nô-ê.
Khi chúng ta nhìn xem thứ tự xuất hiện của các hóa thạch, đi từ chỗ sâu hơn (kỷ Đại Cổ Sinh) trong lòng đất đến chỗ nông hơn (kỷ Đại Tân Sinh), và cách chúng gom lại với nhau, ta thấy các di tích hóa thạch ghi lại tiến trình của Trận Lụt Thời Nô-ê Nô-ê khi nó dần hủy diệt khu vực sống khác nhau mà các sinh vật cư trú trước Trận Lụt Thời Nô-ê. Như đã giải thích trong các số khác của tạp chí Khám Phá, các nhà khoa học tin thuyết Sáng Thế ngày nay tin rằng Trận Lụt Thời Nô-ê Nô-ê bắt đầu từ đáy đại dương khi “các nguồn của vực lớn nổ ra” (Sáng thế ký 7:11), và cuối cùng dẫn đến lũ lụt nhấn chìm và hủy diệt toàn bộ bề mặt Trái Đất.
Đúng như mong đợi, ở dưới đáy của các lớp kỷ Đại Cổ Sinh (nơi Trận Lụt Thời Nô-ê bắt đầu), những sinh vật đầu tiên chúng ta thấy là những sinh vật sống dưới đáy đại dương (như động vật chân đốt và động vật tay cuộn), tiếp theo bên trên lớp đó là các sinh vật bơi dưới biển (như động vật chân đầu và các loài cá). Động vật lưỡng cư (có thể sống dưới nước hoặc trên cạn) xuất hiện ở các lớp tiếp theo (bị chôn vùi khi Trận Lụt Thời Nô-ê di chuyển đến những bờ biển của các lục địa), tiếp theo là đến các loài bò sát, sau đó là các loài chim và động vật có vú. Nhiều loài có vú lớn hơn mà chúng ta thấy trên hành tinh ngày nay, cũng như loài người, có lẽ đã sống cùng nhau trong một nơi cư trú đã bị hủy diệt hoàn toàn trong Trận Lụt Thời Nô-ê, để lại rất ít bằng chứng trong các lớp lụt. (Phần lớn chúng được tìm thấy trong các lớp kỷ Đại Tân Sinh.) (N.d: vì ở trên cùng nên chúng ít bị chôn vùi, dẫn tới ít bị hóa thạch).
Vì vậy, khi chúng ta tìm thấy hóa thạch trong các lớp đá kỷ Đại Cổ Sinh hoặc Đại Trung Sinh, ta sẽ có cái nhìn thoáng qua về một số sinh vật tuyệt vời đã sống trước Trận Lụt Thời Nô-ê và chết trong Trận Lụt Thời Nô-ê – nhiều loài trong số đó hiện nay đã tuyệt chủng.
Chẳng phải thật ngạc nhiên khi thấy khoa học ủng hộ lời Kinh Thánh thật tốt? Đáng buồn thay, bất chấp những bằng chứng, nhiều người “bịt tai không nghe chân lý mà hướng đến những chuyện hoang đường” (2 Ti-mô-thê 4:4) – như Thuyết Tiến Hóa. Nhưng hãy nhớ: sự thật sẽ luôn được làm sáng tỏ cho những ai thực lòng muốn tìm kiếm nó (Ma-thi-ơ 7:7-8).
Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải “xem xét mọi việc” và “điều gì tốt đẹp thì giữ lấy” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:21). Khi xem xét thuyết của các nhà tiến hóa, nhìn vào những bằng chứng vật lý, chúng ta thấy họ không thể giải thích được bằng chứng. Tuy nhiên, Thuyết Sáng Thế và Trận Lụt Thời Nô-ê Nô-ê phù hợp với các bằng chứng và là những lời chứng mạnh mẽ về quyền năng của Đức Chúa Trời.
Richard Huynh (bachkhoa.name.vn)
Dịch và tổng hợp từ bài tham khảo.
Bài Tham Khảo
[1] Are Fossils the Result of Noah’s Flood?
https://www.icr.org/article/are-fossils-result-Noahs-flood
[2] Cái chết quằn quại
https://creation.com/death-throes
[3] The Flood Explains the Fossil Record
https://apologeticspress.org/the-flood-explains-the-fossil-record-5751/
[4] Kỷ Đại Tân Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_T%C3%A2n_sinh
[5] Kỷ Đại Trung Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_Trung_sinh
[6] Kỷ Đại Cổ Sinh
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_C%E1%BB%95_sinh
[7] Kỷ Tiền Cambri
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3_Ti%E1%BB%81n_Cambri
[8] Timeline for the Flood
https://answersingenesis.org/bible-timeline/timeline-for-the-flood/
[9] Catastrophic Geologic Evidences in Ecuador – Part 1: Fossil Formations
https://tasc-creationscience.org/article/catastrophic-gelogic-evidences-ecuador-part-1-fossil-formations
[10] Núi St Helens vạch ra sai lầm của phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ
https://bachkhoa.name.vn/2023/01/15/nui-st-helens-vach-ra-sai-lam-cua-phuong-phap-dinh-tuoi-bang-dong-vi-phong-xa/