Mười Cách Cuộc Cải Chánh Tin Lành Đã Làm Nên Thế Giới Hiện Đại

Nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất trong những điều thúc đẩy cuộc Cải Chánh Tin Lành là giáo lý “Chỉ Duy Kinh Thánh”: niềm tin rằng chỉ Kinh Thánh là bảng quy tắc và hướng dẫn không thể sai cho ta trong các vấn đề về đức tin và đời sống. Là người theo Đấng Christ, chúng ta xem thẩm quyền của Kinh Thánh là trên hết, cả trên Giáo Hội và các truyền thống của nó. Nguyên tắc này, “Chỉ Duy Kinh Thánh”, là “quả bom nổ chậm” đã tạo ra những đợt sóng tiếp theo. Đây là suy nghĩ của tôi về 10 điều quan trọng nhất mà cuộc Cải Chánh Tin Lành đã biến đổi thế giới – và chúng vẫn tiếp tục tác động đến chúng ta ngày nay.
Lưu ý: những điều này không được liệt kê theo độ quan trọng, nhưng theo trình tự thời gian cách tương đối mà chúng phát triển sau khi Martin Luther đóng 95 Luận Đề vào cửa nhà thờ Wittenberg ngày 31 tháng 10 năm 1517 – hơn 500 năm trước.
1. Sola Fide – Chỉ Duy Đức Tin: Sự Công Bình Chỉ Bởi Đức Tin
“Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì đây là quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi người tin, trước là người Do Thái, sau là người Hi Lạp. Vì trong Tin Lành nầy, sự công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ từ đức tin đến đức tin, như có lời chép: “Người công chính sẽ sống bởi đức tin.” (Rô-ma 1:16-17)
Lẽ thật đã làm rung chuyển thế giới của Luther, và rồi cả thế giới Cơ Đốc, là chúng ta không được xưng công bình (trở nên phải đạo trong mắt Chúa) bằng những việc làm của mình – đặc biệt là từ việc mua những tờ giấy vô giá trị gọi là bùa xá tội. Thay vào đó, chúng ta được xưng công bình chỉ duy bởi ân điển của Chúa qua đức tin nơi Chúa Giê-xu. Cuộc cách mạng của Luther – điều thực ra chỉ là khôi phục một giáo lý cốt lõi trong Kinh Thánh (đặc biệt là Ê-phê-sô 2:8-9 “Vì nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều nầy không đến từ anh em mà là tặng phẩm của Đức Chúa Trời; cũng không do việc làm của anh em để không ai có thể tự hào.”) – đã phá vỡ sự kìm kẹp của Giáo Hội với người dân (đầu tiên ở Đức, sau đó khắp châu Âu) và thổi bùng ngọn lửa đổi mới mà sau này được gọi là cuộc Cải Chánh Tin Lành.
2. Hình ảnh của Chúa (imago dei) trong mỗi con người

“Đức Chúa Trời phán: “Chúng Ta hãy tạo nên loài người theo hình ảnh Chúng Ta và giống như Chúng Ta, để quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài gia súc, và khắp cả đất, cùng mọi loài bò sát trên mặt đất.” Đức Chúa Trời sáng tạo loài người theo hình ảnh Ngài. Ngài sáng tạo loài người theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài sáng tạo người nam và người nữ.” (Sáng Thế Ký 1:26-27)
Không chỉ có các vua, vương tử, quý tộc; không chỉ Giáo Hoàng, các hồng y, giám mục – tất cả mọi người đều được tạo nên trong hình ảnh của Đức Chúa Trời và đều xứng đáng được đối xử cách tôn trọng và giá trị. Khi Luther đứng trước hội đồng thành Worms ở Đức, đó là lần đầu tiên một người dân bình thường thách thức sức mạnh của Giáo Hội và nhà nước và sống sót để kể lại việc này. Khi làm vậy, ông đã cài quả bom nổ chậm sẽ thổi bay trật tự thế giới cũ và mở cánh cửa tới tương lai. Giáo lý này cuối cùng sẽ kết thúc chế độ nô lệ khắp phương Tây cũng như thúc đẩy sự tiến bộ và quyền con người ở mọi nơi Tin Lành lan đến.
3. Vai trò thầy tế lễ của mọi tín hữu
“Nhưng anh em là dòng giống được tuyển chọn, là chức tế lễ hoàng gia, là dân tộc thánh, là dân thuộc riêng về Đức Chúa Trời, để anh em rao truyền công đức vĩ đại của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đưa vào vùng ánh sáng diệu kỳ của Ngài.” (1 Phi-e-rơ 2:9)
Theo Kinh Thánh, chức thầy tế lễ không chỉ dành riêng cho những linh mục chính thức được Giáo Hội tấn phong. (Trong Cựu Ước thì có; còn Tân Ước thì không.) Chúng ta không còn cần đi đến một “linh mục” để xưng tội lỗi và nhận sự tha thứ – hay tụng niệm cách không suy nghĩ các lời “Thưa Mary” hay “Kính lạy Cha”. Việc này cũng dẹp bỏ ý nghĩ rằng chỉ linh mục mới có thể nhận thánh lễ và mở ra mọi người nhận Chúa Giê-xu là Chủ đều có thể tham gia (1 Cô-rinh-tô 11:23-34).
4. Giáo lý về sự kêu gọi trong công việc

“Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán: “Hãy sinh sản, gia tăng gấp bội và làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời và mọi loài bò sát trên mặt đất.” (Sáng Thế Ký 1:28)
Một trong những ý tưởng cách mạng nhất của Luther là có sự kêu gọi ngang bằng giữa các giáo sĩ và tín hữu bình thường. Giáo Hội Trung Cổ đã gieo rắc một sự phân biệt rất rõ ràng giữa những thứ thiêng liêng với thế tục. Các giáo sĩ được xem là được kêu gọi đến một sự phụng sự cao hơn so với những người theo đuổi những công việc “thế tục”. Điều Luther đã làm là hòa chung những thứ thiêng liêng với thế tục, và lập luận rằng mọi công việc “thế tục” cũng thiêng liêng với Chúa. [2]
Trong một bài giảng năm 1530, Martin Luther nói: “Mỗi nghề nghiệp đều có vinh dự của nó trước mặt Chúa, cũng như những đòi hỏi và nghĩa vụ riêng.” [2] Mọi công việc hợp pháp, đạo đức, và phải đạo đều tốt đẹp và thánh thiện trong mắt Chúa – không chỉ những công việc thánh của các linh mục và giáo mục. Điều này mang lại phẩm giá to lớn cho những người bình dân làm công việc bình dân – người nông dân, thợ mỏ, buôn bán, chế tạo, v.v… Điều này dẫn đến:
5. Đạo đức Tin Lành và chủ nghĩa tư bản:
“Khi làm bất cứ việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa chứ không phải làm cho người ta, vì biết rằng anh em sẽ nhận được cơ nghiệp từ Chúa làm phần thưởng. Anh em đang phục vụ Đấng Christ là Chúa.” (Cô-lô-sê 3:23-24)
Dù quan điểm của bạn về chủ nghĩa tư bản là gì, nó đã đem lại mức sống cao nhất và những tiến bộ công nghệ tuyệt vời nhất trong lịch sử nhân loại. Nếu không làm sao bạn có thể giải thích một đất nước tương đối nhỏ và trẻ như Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ có thể đi từ một nhóm thuộc địa nhỏ bé trở thành quốc gia thịnh vượng và có quân sự hùng mạnh nhất thế giới từng thấy… và đưa con người lên mặt trăng… trong chưa đầy 200 năm? Khi nước này được thành lập, 98% người dân là người Tin Lành, chủ yếu theo giáo lý Calvin.
Những việc này, cùng với niềm tin chung về trách nhiệm đạo đức rằng công việc phải được thực hiện cách trung thực và đạo đức, đã dẫn tới sự thịnh vượng vật chất chưa từng thấy. Điều đáng chú ý rằng những người Cải Chánh, đặc biệt là Calvin, luôn xem sự thịnh vượng vật chất là phương tiện để có thể hào phóng với công việc của hội thánh và giúp đỡ người kém may mắn hơn.
Chủ nghĩa tư bản xuất hiện đầu tiên ở một nhóm các nước Tin Lành: Hà Lan, Anh, và Mỹ. Vào thời hiện đại, những năm kinh tế Hàn Quốc phát triển từ $2.7 tỷ lên $230 tỷ (1962-1989) cũng là những năm tỷ lệ người Tin Lành ở đó tăng từ 2.5% lên 27%. Sự gia tăng người Tin Lành ở Mỹ Latin dường như cũng tương ứng với sự gia tăng của doanh nghiệp tư nhân ở đó. Nhà xã hội học Peter Berger nói: “(Tư tưởng) Max Weber vẫn sống và khỏe mạnh ở Guatemala.” [3]
6. Giáo dục và phổ cập biết chữ

“Chính Ngài là Đấng chúng tôi rao giảng. Chúng tôi dùng tất cả sự khôn ngoan để cảnh cáo mọi người, dạy dỗ mọi người, hầu trình diện mọi người cách toàn hảo trong Đấng Christ.” (Cô-lô-se 1:28)
Vì cuộc Cải Chánh Tin Lành đặt trọng tâm vào Kinh Thánh, việc đọc nó trở nên cốt lõi để lan truyền Tin Lành và giáo lý Cải Chánh. Điều này dẫn tới tỷ lệ biết chữ gia tăng rất lớn ở khắp châu Âu và xa hơn nữa. Cảm ơn phát minh đáng chú ý của Herr Gutenberg, máy in chữ rời, những tờ rơi, tập báo, và sách trở nên phổ biến rộng rãi. Ở Geneva, Switzerland, John Calvin đã thiết lập hệ thống trường “công” nơi tất cả trẻ em, không chỉ con nhà giàu có hay quý tộc, đều có thể được giáo dục. Điều này dẫn tới sự gia tăng tỷ lệ biết chữ, điều dẫn tới việc đọc Kinh Thánh được lan rộng, và đến lượt nó góp phần thúc đẩy sự lan rộng không thể ngăn cản được của cuộc Cải Chánh.
Bản dịch tiếng Đức của Kinh Thánh, cùng với giáo lý “chỉ duy Kinh Thánh” của Tin Lành, đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phổ cập chữ viết ở khắp châu Âu. Mặc dù số liệu thực nghiệm về tỷ lệ biết chữ trước thế kỷ 19 còn mơ hồ, các học giả cho rằng tới năm 1600, 35%-40% người châu Âu đã có thể đọc. [2] (Có thể bạn sẽ thấy thú vị rằng New England, được thành lập và ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những người Thanh Giáo nhiệt huyết, có tỷ lệ biết chữ ở giữa thế kỷ 19 là 95%… cao hơn nhiều so với ngày nay.)
7. Các bản dịch Kinh Thánh và cả chính ngôn ngữ
“Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở với Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.” (Giăng 1:1)
Trước cuộc Cải Chánh, người dân không thể tiếp cận Kinh Thánh bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Bản dịch Kinh Thánh duy nhất có là bằng tiếng Latin, và cũng chẳng ai đọc tiếng Latin thời đó. Bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức của Martin Luther đã làm một cuộc cách mạng với tiếng Đức. Shakespeare, trong những vở kịch viết vào thập niên 1590 của mình, đã trích từ Kinh Thánh bản Geneva của Calvin. Bản dịch Kinh Thánh King James cũng có tác động tương tự với tiếng Anh như bản dịch của Luther với tiếng Đức; chúng ta vẫn dùng những cụm từ bản King James cho tới ngày nay (như “người con trai hoang đàng”, “người chăn giữ em tôi”, v.v…). Việc dịch Kinh Thánh sang các ngôn ngữ bản địa dẫn đến nhiều văn hóa có được bảng chữ cái, và qua đó trở nên biết chữ, hơn bất cứ yếu tố nào khác.
8. Sự trỗi dậy của khoa học hiện đại
“Các tầng trời rao truyền vinh quang của Đức Chúa Trời, Bầu trời bày tỏ công việc tay Ngài làm. Ngày nầy giảng về vinh quang của Đức Chúa Trời cho ngày kia, Đêm nầy truyền tri thức về Đức Chúa Trời cho đêm nọ.” (Thi Thiên 19:1-2)

“Khoa học là quá trình nghĩ về các ý tưởng của Chúa theo sau Ngài” (Johannes Kepler)

“Thế hệ sau có ngày sẽ cười vào sự ngu ngốc khủng khiếp của triết học duy vật chất hiện đại. Tôi càng nghiên cứu về thiên nhiên, tôi càng kinh ngạc về những công việc của Đấng Tạo Hóa. Tôi cầu nguyện khi tôi làm việc ở phòng thí nghiệm”. (Louis Pasteur)
Khái niệm hiện đại về “khoa học” phát triển từ, và chỉ từ, thế giới quan Kinh Thánh – và nó chỉ bắt đầu sau kỳ Cải Chánh ở Tây và Bắc Âu. Giáo sư Oxford John Hedley Brooke nói Cơ Đốc giáo đã tác động đến sự phát triển của khoa học hiện đại theo những cách sau:
1. Những lời dạy của Cơ Đốc giáo làm tiền đề cho hoạt động khoa học.
2. Những lời dạy của Cơ Đốc giáo đã sanctioned khoa học.
3. Những lời dạy của Cơ Đốc giáo đã tạo ra các động lực để theo đuổi khoa học.
4. Cơ Đốc giáo đón vai trò điều chỉnh regulating phương pháp khoa học.
Bất chấp quan điểm phổ biến và thái độ thường gặp của nền giáo dục vô thần hiện này, khoa học không phải phát triển trong bầu không khí “chiến tranh giữa khoa học và tôn giáo”, nhưng chủ yếu là “một cuộc tranh luận giữa Cơ Đốc nhân về cách tốt nhất để hình dung vai trò của Đức Chúa Trời trong thế giới – một cuộc tranh luận về cách diễn giải các công tác siêu nhiên của Chúa trong một thế giới càng lúc càng được hiểu là vận hành bởi các quy luật tự nhiên.” Hầu hết những nhà khoa học ban đầu, như Johannes Kepler, Rene Descartes, Blaise Pascal, Isaac Newton, Louis Pasteur, Michael Faraday, và nhiều người khác hoặc tuyên xưng mình là Cơ Đốc nhân, hay ít nhất cũng suy nghĩ theo thế giới quan của Kinh Thánh.
9. Chính phủ hạn quyền
“vì họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời để làm ích lợi cho bạn. Nhưng nếu bạn làm điều gian ác thì hãy lo sợ, vì họ mang gươm không phải là vô cớ đâu; họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời để thi hành sự trừng phạt đối với kẻ làm điều gian ác.” (Rô-ma 13:4)
Những người Cải Chánh Tin Lành hiểu rằng quyền của con người đến từ Đức Chúa Trời, không phải từ nhà nước ban cho, và rằng chính quyền dân sự được thiết lập bởi Đức Chúa Trời không phải để chu cấp cho chúng ta mọi thứ hay để quản lý mọi hoạt động của ta, nhưng để thực hiện một số chức năng cơ bản như:
- Để kiềm chế cái ác.
- Để thúc đẩy những lợi ích chung.
- Để phán xét trừng phạt kẻ làm ác.
Calvin nói rằng như vậy, chính quyền dân sự ở dưới một giao ước nghĩa vụ trước Chúa phải hành xử cách đạo đức, cũng như mỗi cá nhân. Nếu chính quyền dân sự trở nên vô đạo đức và gian ác, họ có thể bị thay thế. Những niềm tin và nguyên tắc này rõ ràng rất ảnh hưởng với những người khai phá và các Tổ Phụ Thành Lập Nước Mỹ. Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là quốc gia thứ hai duy nhất được sáng lập dựa trên một giao ước với Đức Chúa Trời – nước Y-sơ-ra-ên thời Cựu Ước là quốc gia đầu tiên.
10. Sự tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà Nước
“…Con phải là người đại diện cho dân chúng trước mặt Đức Chúa Trời, và trình dâng mọi vấn đề của họ lên Đức Chúa Trời. Hãy dạy họ các mệnh lệnh và luật pháp, chỉ cho họ biết con đường họ phải đi, và công việc họ phải làm…” (Xuất Ê-díp-tô Ký 18:17-27)
Vào thời kỳ lịch sử xảy ra cuộc Cải Chánh, Giáo Hội Trung Cổ chi phối nhà nước, gây suy thoái cho cả hai. Nó là một liên minh ma quỷ, dẫn tới sự tham nhũng tràn lan không bị kiềm chế trong cả hai… và kết quả là người dân chịu nhiều khổ sở. Những người Cải Chánh dạy cả hai phải tách rời, rằng công việc của hội thánh không phải là ra lệnh cho nhà nước, hay làm tay sai cho nhà nước, nhưng là lương tâm và buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm về những việc làm của mình. Bức thư “Từ Nhà Tù Birmingham” của mục sư Martin Luther King Jr là một tái tuyên bố và tái khẳng định tuyệt vời gần đây về những nguyên tắc này. Điều này không có ý nói rằng hai thực thể này không tương tác hay không hợp tác với nhau, như nhiều người ngày nay tin, nhưng để nói rằng không bên nào nên thống trị hay điều khiển bên nào. Mỗi bên đều có phạm vi ảnh hưởng và trách nhiệm mà Chúa đặt để. Những Tổ Phụ Nước Mỹ, dù không phải tất cả họ đều là những Cơ Đốc nhân tin theo Kinh Thánh, đều hiểu rõ điều này. Đó là lý do tại sao quyền tự do tôn giáo là điều đứng đầu trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
Tổng Kết
Về bản chất, cuộc Cải Chánh Tin Lành đã tạo ra thế giới hiện đại. Tôi biết rằng những người Cải Chánh, kể cả Luther và Calvin, đều có nhiều khuyết điểm (nhất là khi nhìn từ quan điểm của phương Tây thế kỷ 21), và thế giới hiện đại cũng có những tội lỗi khuyết điểm của nó. Tuy nhiên, khi so sánh với mọi nền văn hóa, xã hội, truyền thống khác, v.v… nó vượt trội về cơ hội, tự do, và những phước lành nó đem lại. Nếu bạn nghi ngờ điều này, hãy tự hỏi mình – tại sao, thậm chí đến ngày nay, rất nhiều người vẫn sẵn sàng chấp nhận rủi ro đến mạng sống mình, thậm chí cả gia đình mình, để đi đến đây? (n.d.: những nước có truyền thống Tin Lành như Mỹ, Anh, Đức, Canada, Úc, các nước Bắc Âu… và những nước Tin Lành phát triển như Singapore và Hàn Quốc.)
Và tất cả bắt đầu khi một người đọc quyển Kinh Thánh.
Bởi Kent Keller
Người dịch & tổng hợp: Richard Huynh
https://thirdmill.org/magazine/article.asp/link/ken_keller%5Ek_keller.ReformationChangedtheWorld.html/at/Top%20Ten%20Ways%20the%20Reformation%20Changed%20the%20World
Bài Tham Khảo
[1] Top Ten Ways the Reformation Changed the World
https://thirdmill.org/magazine/article.asp/link/ken_keller%5Ek_keller.ReformationChangedtheWorld.html/at/Top%20Ten%20Ways%20the%20Reformation%20Changed%20the%20World
[2] Reformation Day: Three ways the Protestant Reformation shaped the modern world
https://thesydneytory.com/2019/10/31/reformation-day/
[3] Three surprising ways the Protestant Reformation shaped our world
https://edition.cnn.com/2017/10/29/world/reformation-world-change/index.html
