Tôi Muốn Một Vị Thần Vĩ Đại Hơn Những Gì Đạo Sư Ấn Giáo Của Mình Đưa Ra

Rahil Patel là một thầy tế lễ Ấn Giáo (đạo Hindu), một người có tài diễn thuyết rất lớn và đã trải quá trình rèn luyện nghiêm khắc trong tu viện Ấn Độ, hành hương đến những nơi thánh, tắm trong các dòng sông thánh ở Ấn Độ như sông Hằng. Ông là một tu sĩ thành công, người đã mở các đền thờ Ấn Giáo ở London, Paris, Lisbon, Antwerp… và đi công tác du lịch thường xuyên như một giám đốc tập đoàn. Tuy vậy, ông thấy việc tu hành, thực hiện các nghi lễ tôn giáo, và công tác giáo hội không giúp mình tẩy sạch tội lỗi, thay đổi bản chất, và cảm nhận sự đổi mới trong mình. Lòng ông cùng các tu sĩ khác vẫn đầy những nóng giận, ghen tị, và cay đắng. Tâm linh ông như tìm kiếm “một vị thần rộng lớn hơn nhiều”, Đấng bao trùm cả nhân loại. Ông ráng sức tìm kiếm lẽ thật và sự thỏa mãn tâm linh, học các về triết gia vĩ đại của Ấn Giáo, thử cả Yoga cùng các kỹ thuật hít thở thiền định, đến cả những sách phát triển bản thân (self-help) của phương Tây, nhưng chỉ thấy mình đụng phải bức tường gạch. Rồi ông phát hiện thần sống Guruji mình theo chỉ là một giáo lý được môn phái Ấn giáo mình chế ra. Tuyệt vọng, chán chường, ông rời bỏ chức tế lễ Ấn Giáo và quay lại đời thường. Rồi trong khi lang thang, ông được thu hút bởi một nhà thờ tuyệt đẹp đang làm lễ Chúa Nhật và vô thức bước vào. Ngay khi đó, ông nhận ra mình đã về nhà, và Đức Chúa Trời chính là vị thần vĩ đại mà ông đang tìm kiếm. Bước đi với Chúa đã cho ông sự thanh tẩy, bình an, thỏa lòng mà mình hằng tìm kiếm.
************
Tôi sinh ra ở Nairobi, Kenya. Một thời gian ngắn sau, gia đình tôi chuyển sang Anh và sống ở một vùng ngoại ô nhiều cây cối gần London.
Anh trai và tôi được học ở trường tốt. trong những gia đình Ấn Độ như chúng tôi, giáo dục là một biểu tượng địa vị và là đường dẫn tới thành công lâu dài. Mặc dù đó không phải là trường Cơ Đốc, chúng tôi hát thánh ca mỗi buổi sáng, cầu nguyện trước bữa trưa, và cầu nguyện lần nữa trước khi về nhà. Mỗi dịp Giáng Sinh tôi lại tham gia vở kịch Giáng Sinh của trường.
Anh trai và tôi được học ở một trường tốt. Trong những gia đình Ấn Độ như chúng tôi, giáo dục là một biểu tượng địa vị và là đường dẫn tới thành công lâu dài. Mặc dù đó không phải là trường Cơ Đốc, chúng tôi hát thánh ca mỗi buổi sáng, cầu nguyện trước bữa trưa, và cầu nguyện lần nữa trước khi về nhà. Mỗi dịp Giáng Sinh tôi lại tham gia vở kịch Giáng Sinh của trường.
Vào những năm 1970, những gia đình Ấn Độ đến sống ở Anh từ Đông Phi đã từ bỏ rất nhiều và mất rất nhiều. Nhưng họ không muốn mất đi ngôn ngữ và tôn giáo của mình. Để duy trì bản sắc văn hóa của mình, nhiều gia đình nhóm lại ở đền Ấn Giáo của khu vực mỗi cuối tuần. Tôi sẽ gặp gần như tất cả mọi người trong cộng đồng qua thức ăn, cầu nguyện, và thờ phượng.
Ở nhà, chúng tôi có hẳn 1 phòng dành cho các thần Ấn Giáo mà mình tin vào. Mỗi buổi sáng, tôi xuống cầu thang để cầu nguyện ở đó. Mỗi buổi chiều, gia đình chúng tôi dành 30 phút trước bàn thờ của nhà trước bữa tối.
Đến tuổi thiếu niên, đời sống tôi thay đổi hoàn toàn. Ba mẹ tôi phải vật lộn để chấp nhận cách sống của mình ở Anh. Luôn có những tranh cãi về địa vị và tiền bạc. Những cuộc tranh cái này khiến tôi luôn ở trong trạng thái lo lắng và hoảng sợ.
Tôi tìm thấy sự an ủi và thuộc về trong đền thờ, nơi tôi kết bạn và tham gia các hoạt động như diễn thuyết, kịch nghệ, và nhảy múa, hay đơn giản chỉ là quét dọn, phục vụ, và thờ phượng trước hình tượng của những thần khác nhau.
Hệ phái của chúng tôi có môt đạo sư (guru) tên là Guruji, người tuyên bố là hiện thân của thần. Bất cứ điều gì ông ta nói hay làm đều được xem là thánh. Năm 1988, khi tôi 16 tuổi, ông đến đền thờ ở London và xem tôi diễn thuyết về một kinh cổ của Ấn Giáo.
Sau đó, khi tôi đến thờ lạy dưới chân Guruji, ông nói: “Con có tài năng diễn thuyết rất lớn.” Ông mời tôi trở thành một swami, hay một thầy tế lễ Ấn Giáo, và gia nhập phong trào của ông. Ngay lập tức, tim tôi nhảy lên, bay bổng với một nguồn sức mạnh và mục đích dâng trào.
Năm 19 tuổi, tôi rời gia đình đi đến một tu viện ở Tây Bắc Ấn Độ. Nó chứa 200 người từ khắp thế giới. Quá trình rèn luyện rất nghiêm khắc. Mỗi sáng, chúng tôi dậy lúc 4:30 để tắm nước lạnh. Sau khi thiền một giờ, chúng tôi tham gia thờ phượng cùng nhau. Sau đó chúng tôi làm những việc đơn giản như lau chùi và kết vòng hoa cho những hình tượng. Sau đó, chúng tôi học các lớp về kinh Ấn Giáo và những tôn giáo khác trên thế giới, kéo dài tới khuya.
Đó là một thời gian thú vị. Tuy nhiên, sau tháng đầu tiên của khóa học, một sự kiện đã làm rung chuyển nền móng suy nghĩ của tôi. Tôi đang ở tầng trên đền thờ, thờ phượng với những thầy tế lễ khác. Những cái chuông đang rung leng keng và những cái trống đang đánh thùng thùng. Trong lúc đó, tôi nghe rõ một câu hỏi nói thầm vào tai trái mình: Liệu con đã lựa chọn đúng? Con có đang ở đúng nơi của mình?
Việc này khiến tôi bị sốc, và tôi vật lộn với nó suốt khoảng thời gian còn lại của buổi lễ thờ phượng. Tôi tự nói với mình đó là “maya”, thế lực ma quỷ gây ảo giác trong Ấn Giáo, đang cố gắng phá hoại vận mệnh tôi. Dẫu vậy, tôi bắt đầu có nhiều câu hỏi và nghi ngờ.
Xung quanh tôi, tôi thấy những swami (thầy tế lễ Ấn Giáo) đã thờ phượng và học đạo nhiều thập kỷ mà không trải nghiệm bất kỳ thay đổi có ý nghĩa nào. Tại sao, tôi tự hỏi, sau tất cả những kiêng ăn, đọc sách, và thiền định, họ vẫn buông mình vào những cơn nóng giận, ghen tị, và cay đắng? Tôi cũng chẳng thấy mình đang thay đổi gì, giống như họ.
Vài năm sau, tôi được thụ phong thầy tế lễ Ấn Giáo và bắt đầu mặc áo lễ dâng tế màu vàng nghệ. Với đầu cạo trọc và dáng vẻ thánh của mình, tôi bắt đầu một cuộc hành hương tới những nơi thánh của Ấn Giáo khắp trên Ấn Độ. Tôi tắm trong sông Hằng và những con sông mang ý nghĩa tâm linh, hy vọng sẽ tẩy sạch những tội lỗi của mình và cảm nhận sự đổi mới. Nhưng một lần nữa, chẳng có gì trong bản chất bên trong của tôi được thay đổi.
Năm 1997, Guruji bảo tôi sống ở đền thờ tại London và phát triển các điểm nhóm khác khắp châu Âu. Tôi mở những đền thờ trong các thành phố như Paris, Lisbon, và Antwerp, và chúng phát triển nhanh chóng, và Guruji rất ấn tượng với các việc làm của tôi. Việc đi du lịch công tác thường xuyên khiến tôi cảm thấy mình quyền lực như một giám đốc tập đoàn.
Tuy nhiên, một lần ở Rome, tôi gặp phải một thứ thật chân thật đến nỗi nó khiến tôi đặt câu hỏi về cuộc đời danh vọng và thành đạt này. Tôi đang ngồi ở Thánh Đường Sistine, bên dưới bức tranh “Sự Phán Xét Cuối Cùng” của Michaelangelo. Tôi đã bị choáng ngợp bởi tính nghệ thuật của nhà thờ, nhưng các hình vẽ về Chúa Giê-xu là đặc biệt ấn tượng. Đó là bắt đầu của một đam mê bí mật về con người Chúa Giê-xu. Trong những chuyến đi của mình, mắt tôi luôn tìm thấy thập tự giá của Đấng Christ gần như vô thức.
Một vị thần rất khác biệt bắt đầu khắc sâu vào tim tôi – một Đức Chúa Trời đẹp đẽ và sâu sắc hơn Guruji hay những hình tượng mà tôi đang thờ phượng. Tôi không biết danh Ngài, nhưng tôi biết Ngài không phải là vị thần mà tôi đang giảng.
Đến năm 2005, những bài giảng trước công chúng của tôi bắt đầu có những thay đổi nhỏ về thần học. Tôi vẫn nói từ các kinh Ấn Giáo, nhưng tôi bắt đầu nói về “một vị thần rộng lớn hơn nhiều”, Đấng bao trùm cả nhân loại. Tôi vẫn không biết vị thần này là ai. Nó thật bực mình.
Năm 2006, tôi mở rộng vùng tìm kiếm lẽ thật và sự thỏa mãn của mình bằng việc học về vài triết gia Ấn Giáo vĩ đại. Tôi lao mình vào Yoga và các kỹ thuật hít thở. Trong tuyệt vọng, tôi thậm chí còn tìm đến cả những sách phát triển bản thân (self-help) của phương Tây. Nhưng việc tìm kiếm của tôi đã đụng phải một bức tường gạch.
Trong khi đó, tất cả những bất an trong tâm linh này đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe thể chất của tôi. Tới năm 2010, tôi đang uống tới 40 viên thuốc mỗi ngày để chữa nhiều chứng đau bệnh và rối loạn khác nhau. Năm đó tôi vào bệnh viện Mayo Clinic ở Jacksonville và ở đó 10 tháng. Vào cuối tuần, tôi đến những đền thờ khác nhau ở Mỹ và tiếp tục giảng một vị thần “vĩ đại hơn”.
Sau khi phục hồi, tôi tính đến Ấn Độ để gặp Guruji. Nhưng những nghi ngờ của tôi về sự thần thánh của ông nổi lên mạnh mẽ khi một swami rất cao cấp nói tôi rằng toàn bộ giáo lý này được chế ra để đem lại cấu trúc cho phong trào tâm linh này. Tim tôi chùng xuống thêm nữa khi tôi xác minh nhận định này với những lãnh đạo hàng đầu khác.
Sau khi đáp máy bay ở Mumbai, tôi được biết rằng Guruji nổi giận với những thay đổi về thần học của tôi. Ông muốn hạn chế ảnh hưởng của tôi bằng cách gởi tôi đến những ngôi làng xa xôi ở Ấn Độ. Lần đầu tiên tôi dám phản kháng, và một cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Cuối cùng, với một cái thở dài, tôi nói Guruji là tôi muốn rời bỏ chức thầy tế lễ.
Sự im lặng bao trùm căn phòng. Sau một thời gian dài như vô tận, Guruji tuyên bố “Được thôi! Đi đi! Ngươi muốn đi đâu, hãy cứ đi!”
Tôi không biết tôi sẽ đi đâu, vì ba mẹ tôi đã đi khỏi London. Một người bạn Ấn Giáo đã mời tôi vào khách sạn mình ở khu Nam Kensington của thành phố. Thất vọng và tổn thương, tôi dừng toàn bộ các ý nghĩ về Chúa và bắt đầu đi tìm việc làm.
Tuy nhiên, nhiều tuần sau, khi tôi đang đi dạo trên đường, chìm đắm trong suy nghĩ, thì tôi chợt thấy một nhà thờ đẹp tuyệt vời. Đó là một buổi sáng Chúa Nhật. Khi tôi bước qua cửa chính, sự hiện diện của Chúa phủ lên tôi như một tấm chăn êm ái. Vào lúc đó, tôi nghe một lời thì thầm không thể nhầm lẫn được, nói rằng: “Con đã về nhà”.
Tôi bước lên cầu thang và ngồi ở một hàng ghế. Tôi thấy thích buổi thờ phượng, và bài giảng có ý nghĩa cách lạ lùng với tôi. Tôi bước ra khỏi nhà thờ với một sự hứng khởi không thể diễn tả. Từ ngày đó, tim tôi dạ vâng với Chúa Giê-xu, và tôi dâng cho Ngài cuộc đời mình.
Tuy nhiên, tôi sớm nhận ra rằng mình cần qua nhiều đợi thải độc, cả về tâm linh lẫn tình cảm. Một trong những bài học khó khăn nhất lúc đầu là học cách nương tựa vào tình yêu thương của Chúa. Là một thầy tế lễ Ấn Giáo, tôi đã quen với việc mình chỉ có thể làm vừa lòng Chúa bằng nỗ lực tâm linh. Việc chuyển từ theo một tôn giáo (nỗ lực giữ các điều lệ & thực hành tâm linh) sang có một mối quan hệ với Chúa là rất khó chịu nhưng đem lại phần thưởng đẹp đẽ.
Chỉ nhờ ân điển Chúa mà tôi đã đi được quãng đường dài trong một thời gian ngắn. Tôi cảm ơn Chúa Giê-xu đã chữa lành tôi khỏi các cảm giác xấu hổ, tội lỗi, oán hận và nóng giận. Hơn hết, tôi cảm ơn Ngài đã kiên trì nhẫn nại gõ cửa lòng tôi cho đến khi cuối cùng nó cũng mở bung ra.
Người dịch: Richard Huynh
Theo ChristianityToday.com
https://www.christianitytoday.com/ct/2024/april/rahil-patel-testimony-hindu-priest.html
