Lược Sử Tranh Luận Giữa Thuyết Tiến Hóa Và Thuyết Thiết Kế Thông Minh

Từ thời các triết gia Hy Lạp cổ đại đã có sự tranh cãi giữa thuyết tiến hóa và thuyết thiết kế thông minh. Có người tin thế giới này tự nhiên có, con người mọi sinh vật sống do các phân tử kết hợp ngẫu nhiên mà thành. Có người thấy mọi thứ trong thiên nhiên được thiết kế cách đẹp đẽ, khéo léo, chính xác, chi tiết, có mục đích… điều này chỉ đến Đấng Thiết Kế Sáng Tạo. Bài này trình bày một số luận điểm của hai bên suốt 2000 năm qua.
*********

Qua hơn 2000 năm, người ta đã tranh luận rằng sự “thiết kế” trong thiên nhiên chỉ đến một Nhà Thiết Kế.1 Vào năm 44 trước Công Nguyên (TCN), nhà văn, nhà hùng biện, và nghị sĩ La Mã Cicero (106-43 TCN) đã dùng khái niệm này trong quyển sách De Natura Deorum (Về Bản Chất Của Các Thần) để tranh luận với các ý tưởng tiến hóa của những triết gia cùng thời với mình.2

Thuyết Tiến Hóa Của Người Hy Lạp Cổ, Các Vị Thần, Và Nỗi Sợ Cái Chết.

Hai trường phái triết học chính thời đó là chủ nghĩa Hưởng Lạc (Epicureanism)3 và chủ nghĩa Khắc Kỷ (Stoicism)4. Người phái Hưởng Lạc chủ trương tìm kiếm hạnh phúc qua vui sướng xác thịt và giải thoát khỏi đau đớn và lo âu. Hai nguồn gây lo âu chính là nỗi sợ các thần (trừng phạt) và nỗi sợ cái chết. Vậy nên Epicurus (người khai sinh phái Hưởng Lạc) tìm cách giải tỏa cả hai nỗi sợ này bằng cách dạy một thuyết tiến hóa phân tử.5 

Ông ta phủ nhận rằng có mục tiêu gì trong thiên nhiên, bởi vì mọi thứ đều được cấu tạo từ các hạt nguyên tử (atoma), và tất cả đều lắng xuống. Ông nói các nguyên tử này đôi khi tự nhiên ‘chuyển hướng’ kết hợp lại với nhau tạo thành các cơ thể – thể không sống, cơ thể sống, con người, và các vị thần. (Người dịch: nghe thật giống thuyết tiến hóa ngày nay: từ vụ nổ Big Bang, năng lượng nguội dần rồi tụ lại thành nguyên tử, rồi thành bụi đá. Bụi đá tiếp tục tụ lại thành các ngôi sao, hành tinh. Rồi một số phân tử kết hợp lại thành các tế bào sống. Chúng nhân bản, biến đổi ngẫu nhiên, và tiến hóa thành muôn vật và con người.) Các vị thần được tạo thành từ nguyên tử mịn hơn con người. Họ không tạo ra thế giới hay có quyền hành gì với nó, vậy nên họ không quan tâm đến những vấn đề của con người. Do đó con người chẳng việc gì phải sợ các thần. Khi ta chết, thể xác sẽ tan rã và không tồn tại nữa, vậy nên chẳng gì phải sợ cái chết hay nguy cơ bị trừng phạt sau khi chết. 

Cicero dùng nhân vật Khắc Kỷ trong quyển sách của mình để bác bỏ những ý tưởng này bằng các luận cứ từ thiết kế, với mục tiêu chứng minh rằng vũ trụ này được quản trị bởi một nhà thiết kế thông minh. Ông lập luận rằng cần có một ý thức mục đích rõ ràng để diễn tả nghệ thuật (như để vẽ một bức tranh hay tạc một pho tượng). Vì thiên nhiên hoàn hảo hơn nghệ thuật (thiên nhiên nhiều cảnh đẹp hơn tranh vẽ, và cơ thể con người tinh tế hơn pho tượng), do đó, thiên nhiên cũng thể hiện mục đích. Ông lý luận rằng đường đi của một con tàu được lái bởi một trí thông minh tài năng, và đồng hồ mặt trời và đồng hồ nước chỉ thời gian theo thiết kế chứ không phải theo ngẫu nhiên. Ông nói ngay cả những người hoang dã ở Anh hay Scythia còn không đến nỗi không thấy được rằng mô hình miêu tả chuyển động của mặt trời, các vì sao và các hành tinh là sản phẩm của ý thức thông minh.6

Máy Antikythera – cỗ máy bánh răng mô phỏng chính xác chuyển động của mặt trời, trăng sao và các hành tinh của người Hy Lạp cổ đại, được xem là những máy tính cổ xưa nhất của loài người. Những người hoang dã không biết gì cũng chỉ nhìn qua là biết rằng cỗ máy này không thể tự nhiên mà có.

Cicero tiếp tục thách thức thuyết tiến hóa của Epicurus bằng việc tự hỏi có ai thật sự có thể tự thuyết phục mình rằng chuyện các hạt bụi đá va chạm ngẫu nhiên có thể tạo ra cái gì đẹp đẽ như thế giới này. Ông nói việc này cũng tương đương với việc tin rằng những chữ cái tung xuống đất đủ nhiều lần sẽ viết được quyển Biên Niên Sử Của Enninus (Annals of Enninus).7,8 Và Cicero hỏi: Nếu sự va chạm ngẫu nhiên của nguyên tử có thể tạo ra thế giới này, vậy tại sao chúng không tạo ra những vật thể dễ hơn nhiều, như một hàng cột, một đền thờ, một căn nhà, hay một thành phố?9

Những Người Dùng Luận Cứ Thiết Kế Thông Minh Gần Đây

Vào thế kỷ 18, người dùng luận cứ thiết kế thông minh nổi bật nhất là William Paley (1743-1805). Trong quyển Thần Học Thiên Nhiên của mình, ông đặt ra trường hợp một người thấy một cái đồng hồ khi đi dạo ở một vùng quê hoang vắng. Từ những chức năng mà các bộ phận khác nhau của đồng hồ cần thực hiện (như các lò xo, bánh răng, kim chỉ), kết luận lô-gic duy nhất có thể là nó có một nhà chế tạo, người ‘hiểu cấu tạo và thiết kế các công dụng của nó’.10 Paley cũng thảo luận về bằng chứng được thiết kế của mắt – về vai trò công cụ để nhìn thì mắt cho thấy sự thiết kế thông minh giống như thấy ở các kính viễn vọng, kính hiển vi, và kính thuốc vậy. Và ông tiếp tục nói về những thiết kế phức tạp của các cơ quan trong cơ thể con người và động vật. Tất cả đều chỉ đến kết luận là việc sự sống phức tạp hiện hữu cho thấy phải có một Đấng Tạo Hóa thông minh thiết kế chúng.

David Hume, triết gia hoài nghi về Chúa người Scotland vào thế kỷ 18, cố gắng phản biện lập luận về cái đồng hồ của Paley rằng đồng hồ không phải là sinh vật sống có thể tự sinh sản. Tuy nhiên, Paley viết 30 năm sau Hume, và các lập luận của Paley là hoàn toàn miễn nhiễm với những phản đối của Hume. (Người dịch: Ngày xưa, người ta tin rằng vật chất có sự sống là nhờ nó có chất sống (hữu cơ), thứ giúp vật chất vô cơ trở nên có sự sống với khả năng sinh sản và phát triển. Vậy nên David Hume nghĩ rằng chất sống này giúp sinh vật sống có thể tự sinh sản và tiến hóa tạo ra các bộ phận chức năng của mình, khác với cái đồng hồ vô cơ phải được lắp ráp chế tạo. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của ngành hóa sinh học phân tử, ta biết rằng không có chất làm cho vật chất vô cơ trở nên sống. Mỗi tế bào là một rô-bốt nhỏ hơn đầu kim nhưng bên trong chứa vô số cỗ máy phân tử (molecular machine) hoạt động để tự lắp ráp nhân bản chính mình từ các chất vô cơ. Rô-bôt này khoa học hiện đại chưa thể làm.)

Cấu trúc và các cỗ máy phân tử bên trong một tế bào, phức tạp hơn một cái đồng hồ nhiều.

Ví dụ, một triết gia hiện đại phản biện Hume rằng: ‘Luận điểm của Paley về các sinh vật là vững vàng dù đồng hồ và các sinh vật sống có giống nhau hay không. Việc nói về đồng hồ là để giúp người đọc thấy rằng biện luận về sinh vật sống là rất thuyết phục.11 (vì ta dễ thấy thiết kế cấu tạo của đồng hồ hơn là của các sinh vật sống. Những cỗ máy bên trong tế bào như bộ mã ADN, hệ thống giải mã, xây dựng, lắp ráp, vận chuyển… đều ở cấp độ phân tử mắt người không nhìn thấy, chỉ gọi chúng là dịch tế bào.) 

Charles Darwin và Paley

Charles Darwin được yêu cầu đọc sách của Paley trong thời gian học thần học ở Cambridge (1828-31). Sau này ông nói: ‘Tôi không nghĩ rằng tôi từng ngưỡng mộ quyển sách nào hơn quyển Thần Học Thiên Nhiên của Paley. Trước đây tôi gần như có thể nói vậy từ tim mình.’ 12

Tuy nhiên, sau đó ông dành cả đời mình để phát triển và quảng bá một thuyết để giải thích cách các ‘thiết kế’ trong thiên nhiên có thể xảy ra mà không cần đến Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa.13 Darwin đề xuất rằng những thay đổi nhỏ hữu ích có thể xảy ra cách ngẫu nhiên, và giúp sinh vật sở hữu chúng có thể tồn tại và truyền lại những thay đổi này – sự lựa chọn tự nhiên. Sự lựa chọn tự nhiên làm việc với cả những cải tiến nhỏ nhất, và qua những khoảng thời gian rất dài, được cho là sẽ tích lũy đủ lượng biến đổi nhỏ để tạo ra tất cả những thiết kế mà ta thấy trong thế giới sự sống.

Khoa Học Hiện Đại VS Darwin

Những nhà tiến hóa học, gồm cả giáo sư vô thần Richard Dawkins ở ĐH Oxford, vẫn dùng thuyết của Darwin để chống lại luận cứ thiết kế thông minh. Nhưng giờ đây họ tin rằng sự lựa chọn tự nhiên làm việc trên những sao chép lỗi (đột biến di truyền), một số chúng được cho là làm tăng lượng nội dung thông tin gene (xem phần thông tin cuối bài). Nhưng luận điểm của Dawkins bị chỉ trích nặng nề trên cơ sở khoa học.14,15,16,17 Tư tưởng Darwin mới (neo-Darwinism) của Dawkins có nhiều lỗi như:

+ Sự chọn lọc tự nhiên đòi hỏi các thực thể có khả năng tự sinh sản. Việc tạo ra ngay cả một tế bào sống có khả năng tự sinh sản đơn giản nhất bằng cách kết hợp ngẫu nhiên các hóa chất còn đáng kinh ngạc hơn việc tạo ra quyển Biên Niên Sử của Ennius bằng cách tung các chữ cái xuống đất. Sinh vật sống đòi hỏi những phân tử dài được sắp xếp cách chính xác từ những “khối xây dựng” nhỏ hơn. Theo cách tự nhiên, không chỉ những khối xây dựng này không kết hợp theo đúng thứ tự, mà chúng còn hoàn toàn không thể xây nên các phân tử lớn hơn! Thay vào đó, các phân tử lớn thường vỡ ra thành các phân tử nhỏ hơn.18 Cũng vậy, các khối xây dựng này là dễ vỡ.19 (Người dịch: mỗi tế bào là một rô-bốt nhỏ hơn đầu kim mà có thể tự lắp ráp chính mình từ vật liệu ngoài môi trường. Ta hãy thử tưởng tượng độ phức tạp của bản vẽ thiết kế của một rô-bốt như vậy! Rồi hãy tưởng tượng khả năng con rô-bốt đó được tạo thành từ việc trộn ngẫu nhiên các hóa chất vật liệu tự nhiên lại.) 

+ Có một bộ máy sinh học phức tạp mà Darwin đơn giản là không biết. Tiến sĩ hóa sinh Michael Behe liệt kê một số các ví dụ: động cơ thực sự (giúp các cỗ máy phân tử bên trong tế bào di chuyển), hệ thống vận tải, cơ chế chống đông máu, bộ máy thị giác phức tạp. Ông lập luận rằng chúng đòi hỏi phải có nhiều bộ phận, hoặc chúng hoàn toàn không thể hoạt động. Vậy nên chúng không thể được tạo ra dần dần từ từng bước nhỏ qua cơ chế chọn lọc tự nhiên.20

Bác sĩ phẫu thuật nói cơ thể con người không thể do tiến hóa mà thành, vì các bộ phận trong cơ thể phải cùng hiện diện và hoạt động nhịp nhàng với nhau để duy trì sự sống
https://bachkhoa.name.vn/2023/07/20/bac-si-phau-thuat-noi-co-the-con-nguoi-khong-the-do-tien-hoa-ma-thanh

+ Nhà vật lý sinh học /lý thuyết thông tin, tiến sĩ Dr Lee Spetner chỉ ra rằng đột biến ngẫu nhiên chưa bao giờ được thấy là thêm vào thông tin (cho gen), mà chỉ làm hư hỏng /mất đi – điều này gồm cả những đột biến hiếm hoi hữu ích. Và ông chỉ ra rằng sự lựa chọn tự nhiên là không đủ để tích lũy những lợi thế nhỏ, vì chúng quá yếu để vượt qua tác động của sự ngẫu nhiên, thứ có xu hướng loại bỏ những biến dị.21

Kinh Thánh Và Luận Cứ Thiết Kế: Thiết Kế Thôi Chưa Đủ!

Sứ đồ Phao-lô dùng luận cứ thiết kế thông minh trong Rô-ma 1:20 khi ông tuyên bố rằng quyền năng đời đời và bản chất thánh của Đức Chúa Trời có thể được nhận biết qua những vật được tạo dựng (tức là những bằng chứng về thiết kế trong thiên nhiên). Và ông nói rằng vì việc này, những kẻ không tin kính ‘không thể bào chữa’. Nhưng Phao-lô nói tiếp rằng người ta cố ý chối bỏ bằng chứng rõ ràng này.

Bằng chứng về sự thiết kế trong thiên nhiên là đủ để buộc tội con người, nhưng không đủ để cứu chuộc họ. Kinh Thánh nói rõ rằng việc giảng Tin Lành cũng cần thiết để chỉ cho chúng ta cách để có mối quan hệ đúng đắn với Đấng Tạo Hóa.22

Cicero sống vào thế kỷ trước đấng Christ và có lẽ chưa bao giờ nghe về Đức Chúa Trời của Sáng Thế Ký; ông dùng luận cứ thiết kế để ủng hộ cho các thần và nữ thần Hy Lạp của phái Khắc Kỷ. Ngày nay, những người Tâm Linh Thời Đại Mới (New Age) có thể nói sự thiết kế đến từ Mẹ Thiên Nhiên hay Gaia (nữ thần trái đất của Hy Lạp).

Chia Sẻ Tin Lành Qua Thuyết Sáng Tạo

“Ban đầu, Đức Chúa Trời sáng tạo trời và đất….” Sáng Thế Ký 1:1

Khi Cơ Đốc nhân dùng luận cứ thiết kế thông minh và những lập luận khác từ khoa học, họ đang thực hiện việc tiền rao giảng Tin Lành, nghĩa là họ đang tìm cách chỉ ra những sai lầm của các giả định tiến hóa đã làm mù mắt con người ngày nay trước lẽ thật của Lời Chúa. Điều này được thể hiện qua trải nghiệm của sứ đồ Phao-lô ở thành Athen. Phao-lô giảng về Chúa Giê-xu và sự phục sinh (Công Vụ 17:18), điều thách thức tất cả các triết gia chủ nghĩa Khoái Lạc (tin con người là duy vật chất và các thần không can dự vào chuyện thế gian, chết là hết nên chú trọng hưởng lạc) và chủ nghĩa Khắc Kỷ (tin có linh hồn và vô số thần, nhưng không có sự phục sinh, linh hồn bất tử nên chú trọng rèn luyện tâm hồn) – nghĩa là cả những đối thủ của Cicero cùng các tín hữu của ông. Phao-lô thách thức những tư tưởng sai lầm của họ bằng cách chỉ cho họ Đấng Chân Thần đã tạo dựng mọi thứ. Nhưng Phao-lô không ngừng ở sự sáng tạo.23

Ông kêu gọi họ hãy ăn năn, và ông nói họ có thể biết rằng sẽ có một Ngày Phán Xét vì Đức Chúa Trời đã đặt ra một Đấng Phán Xét và đảm bảo điều này bằng việc phục sinh Ngài từ cõi chết (Công Vụ 17:18-31).

Cách duy nhất để được cứu là tin nhận Tin Lành của Chúa Giê-xu Christ (Công Vụ 4:12), Đấng Sáng Tạo và người Đấng Cứu Chuộc (Ê-sai 59:20), người đã chết và sống lại để trả thay cho tội lỗi của loài người. Chúng ta cần theo cách Phao-lô trình bày Tin Lành ở 1 Cô-rinh-tô 15:1-4, 21-22, 26, 45, điều chỉ có ý nghĩa khi thực sự đã có sự Sáng Thế, sự Sa Ngã (của Adam và Eve), và sự trừng phạt bằng cái chết của tội lỗi… theo nghĩa đen.

Không Có Đấng Christ, Luận Cứ Thiết Kế Thông Minh Không Có Khả Năng Cứu Chuộc. 

Sứ đồ Giăng đã viết sách Phúc Âm của mình ‘Nhưng những việc này được chép ra để các người tin rằng Đức Chúa Jesus chính là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời, và để khi tin các người có sự sống trong danh Ngài.’ (Giăng 20:31). Nhưng ông bắt đầu sách Phúc Âm của mình bằng cách tuyên bố rằng Chúa Giê-xu là Đấng Tạo Hóa (Giăng 1:1-3), Ngôi Hai trong Đức Chúa Trời Ba Ngôi, người mang lấy bản chất của con người (Giăng 1:14). Vậy nên việc truyền giảng Tin Lành phải giới thiệu Đấng Christ là Đấng Sáng Tạo, nếu không nó sẽ bị thiếu sót – nếu đấng Christ không phải là Đức Chúa Trời, thì Ngài không thể là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta (Ê-sai 43:11).

Kết Luận

Nếu không có sứ điệp và sự thiết kế và Đấng Sáng Tạo, việc giảng Tin Lành bị thiếu cơ sở. Không có đấng Christ, luận cứ thiết kế thông minh không thể cứu chuộc. Chúng ta phải trình bày một Phúc Âm trọn vẹn, bắt đầu bằng sự tạo hóa của Đức Chúa Trời Ba Ngôi, và kết hợp nó với sứ điệp về sự chết của đấng Christ cho tội lỗi của con người và sự phục sinh của Ngài.

Thông Tin: Một Luận Cứ Thiết Kế Thông Minh Của Khoa Học Hiện Đại

DNA – mã thông tin của sự sống

Mọi thiết kế trong sinh vật sống được mã hóa trong một loại sách công thức với rất nhiều thông tin. Thông tin miêu tả độ phức tạp của một chuỗi – nó không dựa vào vật chất tạo thành của chuỗi đó. Nó có thể là một chuỗi phân tử mực trên giấy (sách) – nhưng thông tin không chứa đựng trong các phân tử mực mà trong các dạng mẫu (pattern – như chữ cái, thứ tự, cấu trúc). Thông tin cũng có thể được chứa trong âm thanh ở dạng sóng (như lời nói), nhưng một lần nữa, thông tin không phải là chính âm thanh; sóng điện tử (trong điện thoại); mẫu điện từ (trong đĩa cứng máy tính).

Nhà vật lý vô thần Paul Davies thừa nhận: ‘Không có định luật vật lý nào có thể tạo ra thông tin từ không có gì’ (quả là một bước nhảy lượng tử của đức tin). Nhà khoa học về thông tin Werner Gitt đã chứng minh rằng các quy luật thiên nhiên về thông tin cho thấy, trong mọi trường hợp đã biết, thông tin đòi hỏi một người gửi có lý trí thông minh,A một kết luận bị bác bỏ bởi Davies thuần túy trên cơ sở triết học (tôn giáo). Vậy nên một phiên bản hiện đại của lập luận thiết kế thông minh là phát hiện nội dung chứa nhiều thông tin. Thật sự, đây chính là tất cả những gì về dự án SETI (Searching Extra Terrestrial Intelligence – tìm kiếm trí thông minh ngoài trái đất). Dự án SETI cố gắng phát hiện tín hiệu sóng vô tuyến chứa đựng lượng thông tin cao, điều họ nghĩ là bằng chứng của một người nhắn tin có lý trí thông minh, ngay cả khi chúng ta không biết gì về bản chất của người gửi.

Trong sinh vật sống, thông tin đều được chứa trong các dạng mẫu trong DNA, thứ dùng để mã hóa các chỉ dẫn để xây dựng protein, những viên gạch xây dựng nên tất cả các bộ máy của sự sống. Có 4 loại ‘chữ cái’ DNA gọi là nucleotides, và 20 loại ‘chữ cái’ protein gọi là amino acids. Một nhóm (codon) gồm 3 ‘chữ cái’ DNA mã hóa một ‘chữ cái’ protein. Thông tin không được chứa đựng trong hóa chất làm nên các ‘chữ cái’, nhưng trong thứ tự chuỗi của chúng. DNA là hệ thống lưu trữ và truy cập thông tin cô đọng nhất được biết ngày nay.

Giờ hãy nghĩ nếu ta phải viết tất cả thông tin về các sinh vật sống vào sách. Nhà vô thần Dawkins thừa nhận rằng: ‘Trong mỗi tế bào con người có đủ khả năng chứa thông tin để lưu trữ bộ Bách Khoa Từ Điển Anh Quốc (Encyclopedia Britannica), tất cả 30 tập, 3-4 lần.B Ngay cả các sinh vật sống đơn giản nhất cũng có hơn 482 gen mã hóa protein với 580,000 ‘chữ cái’.C 

Hãy giả sử chúng ta có kỹ thuật ngược lại, là lưu trữ các thông tin từ sách vào DNA – đây sẽ là kỹ thuật máy tính lý tưởng. Lượng thông tin có thể chứa trong một khối DNA bằng đầu kim là tương đương với 1 chồng sách giấy cao gấp 500 lần khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng, mỗi quyển chứa một nội dung cụ thể khác nhau.D Nói cách khác, một đầu kim DNA có sức chứa thông tin hơn hàng tỷ lần cái dĩa cứng 4GB.

Cũng như những chữ cái ABC tự chúng không viết được quyển Biên Niên Sử Ennius (Annals of Ennius), các chữ cái DNA tự chúng không tạo ra các chuỗi thông tin có ý nghĩa. Và cũng như quyển Biên Niên Sử là vô nghĩa với người không biết ngôn ngữ, những sắp xếp chữ cái DNA sẽ là vô nghĩa nếu không có “ngôn ngữ” của mã DNA. (Và thông tin trong mã DNA cũng sẽ là vô nghĩa nếu tế bào không có bộ máy giải mã và lắp ráp xây dựng những tế bào mới theo mã. Đây là một bộ máy phân tử vô cùng phức tạp không thể ngẫu nhiên có, và cũng không thể từ từ tiến hóa thành.)

So sánh lượng mã chỉ dẫn lắp ráp/hoạt động trong gene người và các vật thể khác

Người dịch: Richard Huynh
Theo Creation.com
https://creation.com/a-brief-history-of-design

Tham Khảo Và Ghi Chép

  1. Philosophers often call this the teleological argument.
  2. A fictitious dialogue involving an Epicurean, a Stoic, and a speaker from the Academy (the philosophical school founded by Plato).
  3. Based on the teachings of Epicurus (341–270 BC).
  4. Based on the teachings of Zeno of Citium (335–263 BC ). The Stoics were pantheists. For them, happiness lay in emulating the calm and order of the universe by enduring hardship and adversity with fortitude and a tranquil mind. The name derives from the porch (Greek: stoa) where Zeno taught.
  5. Derived from Democritus (460–361 BC). These philosophies were of Greek origin.
  6. Cicero, De Natura Deorum, Book 2, sections 87–88.
  7. Ref. 6, Book 2, section 93.
  8. Compare Grigg, R., Could monkeys type the 23rd Psalm? Creation 13(1):30–34, 1990; updated in Apologia 3(2):59–64, 1994.
  9. Ref. 6, Book 2, section 94.
  10. Paley, W., Natural Theology, first published 1802, republished by Bill Cooper as Paley’s Watchmaker, New Wine Press, Chichester, England, pp. 29–31, 1995.
  11. Sober, E., Philosophy of Biology, Westview Press, Boulder, CO, USA, p. 34, 1993, cited in Behe, Ref. 20.
  12. C. Darwin to John Lubbock, Nov. 15, 1859, Life and Letters of Charles Darwin, D. Appleton & Co., 2:15, 1911.
  13. Wieland, C., Darwin’s real message: have you missed it? Creation 14(4):16–19, 1992.
  14. Gitt, W., Weasel words, Creation 20(4):20–21, September 1998.
  15. Bohlin, R.G., Up the river without a paddle—Review of River Out of Eden: A Darwinian View of Life, Journal of Creation 10(3):322–327, 1996.
  16. Sarfati, J.D., Review of Climbing Mount Improbable, Journal of Creation 12(1):29–34, 1998.
  17. Truman, R., The problem of information for the Theory of Evolution: Has Dawkins really solved it? 14 July 1999; trueorigin.org/dawkinfo
  18. Sarfati, J., Origin of life: the polymerization problem, Journal of Creation 12(3):281–284, 1998.
  19. Sarfati, J., Origin of life: Instability of building blocks, Journal of Creation 13(3):124–127, 1998.
  20. Behe, M.J., Darwin’s Black Box, The Free Press, NY, USA, p. 217, 1996. He calls this property: ‘irreducible complexity’.
  21. Spetner, L.M., Not By Chance, The Judaica Press, Brooklyn, NY, USA, 1997; see A review of Not by chance!
  22. Matthew 28:18–20; Mark 16:15; Luke 24:47; Romans 10:13–15.
  23. For further reading: Morris, H.M., Design is not enough! Back to Genesis No. 127:a–c, July 1999; icr.org/article/859/321.

  1. Gitt, W., In the Beginning was Information, CLV, Bielefeld, Germany, 1997. 
  2. Dawkins, R., The Blind Watchmaker, W.W. Norton, NY, USA, p. 115, 1986.
  3. Fraser, C.M. et al., The minimal gene complement of Mycoplasma genitalium, Science 270(5235):397–403, 1995; perspective by Goffeau, A., Life with 482 Genes, same issue, pp. 445–446.
  4. Gitt, W., Dazzling design in miniature, Creation 20(1):6, 1997; creation.com/dna.