Tin Lành Đến Với Người Lính Chỉ Huy Trận Trân Châu Cảng
Mitsuo Fuchida là người Nhật, rất thù ghét người Mỹ về cách Mỹ đối xử với người Á Châu trong tiền bán thế kỷ 20. Ông tốt nghiệp trường sĩ quan và trở thành phi công trong Không quân Nhật, nơi ông đã thăng tiến rất nhanh và năm 1941 ông trở nên phi công giỏi nhất của Nhật. Vì vậy khi chánh quyền Nhật quyết định tấn công Trân Châu cảng, họ đã chọn Fuchida chỉ huy trận đánh. Chính ông là người điện về mẫu hạm những chữ nổi tiếng, “Tora! Tora! Tora!” (Tiger! Tiger! Tiger!). Là khẩu hiệu báo tin sứ mạng thành công.
Sau này ông Fuchida biết được rằng trong số 360 phi công tham gia chiến dịch, chỉ mình ông trở về tới căn cứ. Sau khi đáp máy bay xuống hạm, ông quan sát và thấy phi cơ mình mang 20 lổ đạn phòng không, và sợi dây điện điều khiển chính chỉ còn một sợi nhỏ dính liền. Dầu là người không có tôn giáo nhưng đây là một trong loạt những sự kiện cận kề cái chết giúp ông tin rằng có Đấng thiêng liêng quan phòng ông.
Lần khác, trong trận tấn công hạm đội Mỹ ở Midway, phi cơ ông bị bắn rơi, dầu bị thương, nhưng ông vẫn sống sót. Về sau nữa khi ông đang chờ hồi phục sau cuộc giải phẫu ruột thừa trong bệnh xá dưới hầm tàu thì hạm bị máy bay Mỹ bỏ bom. Ông bò lên sân bay trên sàn tàu thì bị trúng bom, ông bị tung lên cao và khi rơi xuống, cả hai chân đều bị gãy. Trong khi đó thì tất cả những người ở dưới hầm tàu đều bị chết cháy. Sau này ông Fuchida viết lại rằng dầu lúc đó ông không có tôn giáo, nhưng ông đã bắt đầu tin rằng có một định mạng vĩ đại đang chờ đợi ông phía trước.
Đến năm 1945, Fuchida trở thành sĩ quan cao cấp nhất trong không lực Hải quân hoàng gia Nhật. Ông đang viếng thăm một căn cứ mới được xây dựng ở Hiroshima cho bộ chỉ huy thì nhận được lệnh phải quay trở lại Tokyo ngay để tường trình với Nhật hoàng. Ông rời lúc 5pm thì ngay 8am hôm sau, Hiroshoma nhận lãnh quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Tất cả mọi người trong căn cứ mới ấy đều bị chết thảm.
Ông quay trở lại để quan sát thì thấy cảnh tượng thật kinh hoàng, ngoài sự diễn tả của ngôn ngữ con người. Ông viết một lá thư gửi Nhật hoàng, và chính lá thư này đã thuyết phục vua Nhật ngưng chiến và đầu hàng đồng minh.
Cùng ngày thành phố Hiroshima bị bom nguyên tử, một tù nhân Mỹ tên Jacob DeShazer nói rằng ông được Chúa Thánh Linh thúc giục mạnh mẽ cầu nguyện cho hòa bình. Ông bị quân Nhật bắt năm 1942 trong phi vụ đột kích bỏ bom Tokyo, sau đó máy bay bị trục trặc buộc ông phải nhảy dù xuống Trung quốc, và rơi vào vùng Nhật chiếm đóng nên bị bắt.
Mùa Giáng Sinh năm 1941, khi nghe tin Mỹ bị Nhật tấn công ở Trân Châu cảng, ông DeShazer rất tức giận và tuyên bố sẽ trả thù. Khi được nghe về một sứ mạng bí mật và đầy nguy hiểm chống lại Nhật, ông liền tình nguyện. Sau khi được huấn luyện trở thành chuyên viên ném bom, ông ở trong toán Doolittle Raiders, chuyên lái máy bay B-25 vượt chặng đường xa từ hàng không mẫu hạm đến Nhật bỏ bom. Và trong chiến dịch năm 1942, ông cùng với ba đồng đội đã bị Nhật bắt, bị biệt giam trong 40 tháng, cùng với 34 tù binh Mỹ khác.
Trong thời gian này ông bị đưa sang Nhật. Bị tra tấn, hành hạ ngày đêm, bị bỏ đói và đánh đập tàn nhẫn đủ mọi hình thức cực kỳ dã man. Tháng 10 năm 1942, ba người trong nhóm bị xử tử, nhưng hoàng đế Hirohito đã giảm án cho 5 người, trong đó có DeShazer, xuống còn chung thân.
Sau đó họ được chuyển trở lại Nam Kinh và bị biệt giam, mỗi ngày chỉ được vài phút hít thở bên ngoài trời. Trải suốt nhiều năm họ xin được cung cấp sách đọc. Cuối cùng, năm 1944, quân Nhật bớt nghiêm khắc, và ở giữa những sách được cung cấp, họ được cho một quyển Kinh Thánh.
Mỗi tù nhân được chia đọc trong 3 tuần. Mặc dầu ánh sáng trong xà lim của ông DeShazer rất lờ mờ, nhưng ông đã đọc xuyên toàn bộ Kinh Thánh nhiều lần và các sách tiên tri Cựu ước sáu lần. Ông học thuộc lòng nhiều phân trong Kinh Thánh như Bài Giảng Trên Núi, 1 Cô-rinh-tô 13 và 1 Giăng. Sứ điệp của Thánh Kinh đã đi vào lòng ông. Ngày 8 tháng 6 năm 1944, ông DeShazer đã dâng lời cầu nguyện tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-su, xin được tha thứ và kinh nghiệm niềm vui của sự cứu rỗi. Ông khám phá ra lòng mình mềm dịu lại đối với kẻ thù.
Sự vâng lời trở nên chìa khóa đối với ông DeShazer. “Hãy yêu kẻ thù mình” bao gồm ngay cả khi những cai tù độc ác mà ông cực kỳ căm ghét trước đây – đặc biệt là người đã đẩy ông vào ngục, đóng cửa dập kẹt chân ông, và mang giầy đinh giẫm lên. Ông DeShazer bắt đầu ăn nói cách nể trọng với cai tù. Nó cần thời gian, nhưng cuối cùng họ cũng đã đáp ứng lại cách tử tế.Sau chiến tranh, ông được thả và sau này viết một Truyền Đạo đơn tựa đề “Tôi Là Một Cựu Tù Nhân Của Nhật” (I Was a Prisoner of the Japanese). Trong quyển sách này ông mô tả chi tiết những kinh nghiệm đã trải qua đang bị bắt và thế nào ông nhận Chúa và cuối cùng sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù mình.
Trong thời gian đó, tướng Douglas McCathur gửi một thông điệp qua tuyên úy quân đội đến chủ tịch Thánh Kinh Hội xin in điều gì đó có thể giúp hàn gắn vết thương giữa Nhật và Mỹ. Hội đã in 1 triệu quyển Truyền Đạo đơn bài làm chứng của ông DeShazer, “Tôi Là Cựu Tù Nhân Của Nhật,” và được phát khắp nước Nhật.Năm 1950, DeShazer trở lại Nhật trong vị thế giáo sĩ truyền giảng cho những người cai tù của mình. Trong chuyến đi này ông gặp Fuchida, viên phi công đã chỉ huy trận đánh Trân Châu cảng. Fuchida đã đọc sách của DeShazer. Ông nói rằng ông liên tục suy nghĩ và nghiền ngẫm rất nhiều sứ điệp trong quyển sách, nhưng không biết phải làm gì.
Sau chiến tranh, Fuchida tò mò muốn biết các tù nhân chiến tranh Nhật bị đối đối như thế nào trong khi bị giam. Ông nói với người bạn và được cho biết họ được đối xử rất tốt. Fuchida được giới thiệu với một cô gái Mỹ 18 tuổi tên Peggy Covell, người tình nguyện giúp đỡ các tù nhân Nhật.
Fuchida hỏi cô sao cô lại muốn giúp đỡ kẻ thù của mình cách vui vẻ như thế. Cô đáp, “Bởi vì lính Nhật đã giết cha mẹ tôi!” Cô giải thích rằng cha mẹ cô là cựu giáo sĩ dạy học ở Nhật trước chiến tranh. Sau đó họ chạy trốn và bị bắt ở Phi Luật Tân và bị kết tội gián điệp, và cha mẹ cô bị chém đầu đang khi họ quỳ gối cầu nguyện. Có nói rằng cha mẹ cô chắc chắn đã tha thứ cho họ, vì vậy cô cũng muốn làm như thế. Và đang khi cầu nguyện và tha thứ cho kẻ giết cha mẹ mình, Đức Chúa Trời đặt trong cô gánh nặng giúp đỡ họ. Câu chuyện này khiến Fuchida cực kỳ kinh ngạc. Đó là lần đầu tiên ông tiếp xúc với ân điển lạ lùng của Đức Chúa Trời.
Một ngày vào tháng Mười năm 1948, đang khi chờ tàu hỏa ở một trạm tại Tokyo, Fuchida được biếu cho một quyển “Tôi Là Một Cựu Tù Binh Của Nhật” của DeShazer viết. Ban đầu ông định quăng nó vào sọt rác, nhưng khi thấy tên người viết là một cựu phi công, nên ông giữ lại và đọc với sự tò mò thích thú. Sau khi gặp cô Peggy, ông liền mua ngay một quyển Kinh Thánh.
Khi đọc Kinh Thánh, quyền năng của Lời Đức Chúa Trời bắt lấy ông. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su trên thập tự giá thu hút ông, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu-ca 23:34). Ông bậc khóc nức nở khi nhận ra rằng Chúa Giê-su đã cầu nguyện và chịu chết thay cho mình. Ông mở lòng tiếp nhận Chúa Giê-su làm Cứu Chúa của cuộc đời mình hôm đó, một ngày vào tháng 9 năm 1949. Fuchida và DeShazer cùng phục vụ Chúa với nhau nhiều năm tiếp theo sau buổi gặp gỡ nhau và đã đưa dẫn hàng ngàn người đến với Chúa Cứu Thế Giê-su.
Ông Fuchida về với Chúa ngày 30 tháng 5 năm 1976. Ông nói rằng muốn được nhớ đến như là người phục vụ Chúa Giê-su hơn là người chỉ huy trận Trân Châu cảng. Ông viết,“Sáng hôm đó [7/12/1941]… tôi đã vén bức màn của chiến tranh và trút xuống sự rủa sả, và tôi đã dốc hết nổ lực vào cuộc chiến tiếp theo sau đó, nhưng sau khi mua và đọc Kinh Thánh, tâm trí tôi bị thuyết phục mạnh mẻ đi rao truyền Tin Lành. Hôm nay tôi có thể nói một cách không ngần ngại rằng ân điển lạ lùng của Đức Chúa Trời đã bao phủ trên cuộc đời tôi.”
Cuối cùng thì ông Fuchida đã nói đúng – ông được định cho sự vĩ đại trong vương quốc của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Và ông đã đứng lên đáp lại tiếng gọi ấy. Mitsuo Fuchida đã trở nên một môn đồ thật của Chúa Cứu Thế Giê-su! Ân điển và sự tha thứ của Đức Chúa Trời, cùng với định mệnh vĩ đại trong vương quốc Ngài vẫn đang sẵn dành cho Bạn. Hãy đáp tiếng gọi của Ngài!Câu gốc suy gẫm:“Phước cho người nào lỗi lầm được thứ tha, Tội lỗi được khỏa lấp! Phước cho người mà Chúa không kể là có tội!” (Rô-ma 4:7-8).
(Sưu Tầm)