Desiderius Erasmus: Người Tạo Ra Quả Trứng Mà Martin Luther Đã Ấp Nở

Desiderius Erasmus sinh năm 1466 và mất năm 1536 lúc 70 tuổi. Đây là một kỳ tích vào thời mà bệnh dịch hạch cùng kỹ thuật y tế còn sơ khai làm tuổi thọ bình quân của con người chỉ khoảng 35-40 năm.
Cả cha mẹ ông đều trở thành nạn nhân của cùng một trận dịch hạch khi Erasmus còn là một cậu bé. Ông và anh trai của mình được gửi đến cho một chú, người nhanh chóng gửi họ vào tu viện để đỡ phải nuôi. Vậy nên số phận của Erasmus đã được định đoạt từ trước khi ông có thể tự quyết định. Erasmus cảm thấy bị bắt buộc và về sau hối hận vì quyết định này. Ông có một nền giáo dục tốt, và ưu tiên cao cho sách. Ông nói rằng “Khi tôi có một ít tiền, tôi mua sách. Nếu còn lại cái gì… thì tôi mua thức ăn và quần áo.”
Erasmus từ trẻ đã nổi tiếng vì sự quyến rũ, thanh lịch, và dí dỏm của mình, cùng một trí thông minh hơn hẳn người thường. Ông sau đó chọn trở thành tu sĩ dòng Augustine với lý do duy nhất là họ nổi tiếng với những thư viện tốt nhất.
Hành vi của ông có phần kỳ lạ theo chuẩn dòng tu Augustine. Ông từ chối thức đêm cầu nguyện, không ngần ngại ăn thịt vào thứ Sáu, và dù đã được thụ phong, chẳng chịu làm một linh mục. Giáo Hội Trung Cổ chiếm giữ được thân xác ông, nhưng có vẻ như trí não và trái tim ông vẫn không bị trói buộc.
Ông theo học Đại Học Paris nơi ông bị ảnh hưởng bởi những người theo chủ nghĩa Phục Hưng Nhân Văn. Ông dạy tiếng Hy Lạp ở Đại Học Cambridge ở Anh. Ông làm quen với những người theo chủ nghĩa Nhân Văn nổi tiếng như Thomas More và John Colet.
Khác với chủ nghĩa Nhân Văn Hiện Đại (Modern Humanism), chủ nghĩa Nhân Văn Phục Hưng (Renaissance Humanism) tìm cách cải tiến đức tin bằng cách bác bỏ các khái niệm về Đức Chúa Trời, đức tin, đạo đức, và sự cứu rỗi thời Trung Cổ và quay lại với cội nguồn – đặc biệt là Kinh Thánh. Nó còn được gọi là “Sự Học Mới.” Khẩu hiệu của nó là “Ad fontes!”, tiếng Latin cho “Đến với nguồn cội” hay “Trở về nguồn cội.”
Ở Anh, Erasmus đã rất ấn tượng khi nghe John Colet dạy trực tiếp từ Kinh Thánh – không phải từ những diễn giải Kinh Thánh (của giáo hội) như Erasmus được học ở Paris. Colet kêu gọi Erasmus hãy học Kinh Thánh – để trở thành một “nhà thần học nguyên thủy.” Điều này đã truyền cảm hứng cho Erasmus để tập trung vào tiếng Hy Lạp và sách Kinh Thánh Tân Ước. Erasmus nói “Tôi không thể nói cho ngài, Colet thân mến, tôi vội vã như thế nào, giương hết buồm, đến với các sách thánh. Và tôi không thích bất cứ thứ gì kìm hãm hay làm tôi chậm trễ.”
Kết quả là Erasmus đã cho thế giới tác phẩm làm nên tên tuổi của ông – quyển Kinh Thánh Tân Ước tiếng Hy Lạp. Erasmus viết trong phần mở đầu là ông ước “chúng sẽ được dịch sang từng và tất cả ngôn ngữ.. Để người nông dân có thể hát những đoạn Kinh Thánh khi cày ruộng, và người dệt vải có thể ngân nga những câu Kinh Thánh theo giai điệu của con thoi, và người lữ hành có thể được vơi đi những mệt mỏi từ hành trình của mình bằng các câu chuyện từ Kinh Thánh.”
Erasmus là một người chống đối liên tục và công khai những điều quá mức của Giáo Hội Trung Cổ. Ông chỉ trích giáo hoàng, giới linh mục, và sự ăn chơi của các tu sĩ. Ông nói các tu sĩ không chạm vào tiền, nhưng họ không thận trọng như vậy với rượu và gái. Ông luôn tấn công chuyện tỳ thiếp của giới linh mục và sự tàn bạo mà Giáo Hội Trung Cổ đối xử với những người họ xem là “dị giáo.” Ông còn được ghi nhận là đã cứu một người khỏi Tòa Án Dị Giáo.
Trong nhiều bài viết của ông có một bài viết tên là “Chống Lại Bọn Dã Man” nhắm tới những gian ác trắng trợn của Giáo Hội Trung Cổ. Ông liên tục chỉ trích Giáo Hoàng Julius và vương quyền của giáo hoàng. Ông thương so sánh chuyện Giáo Hoàng Julius lãnh đạo thập tự chinh như Julius Caesar. Ông được nói đã nói: “Julius thực sự đang đóng một phần vai của Julius”. Ông cũng từng tuyên bố: “Chế độ vương quyền của Giáo Hoàng La Mã thật là một loài sâu hại của thế giới Cơ Đốc.” Ông khuyên hội thánh hãy “loại bỏ Tòa Thánh La Mã.” Khi một bài châm biếm, trong đó Giáo Hoàng Julius được miêu tả là xuống địa ngục, viết ẩn danh được lưu hành, thì người ta suy nghĩ khá chung rằng tác giả là Erasmus.
Ông được đề nghị chức giám mục với hy vọng nó sẽ khiến ông im lặng thôi chỉ trích. Ông từ chối khoảng hối lộ này thẳng thừng.
Erasmus xuất bản 5 phiên bản Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp. Chúng được xuất bản liên tục trong các năm 1516, 1519, 1522, 1527, và 1535. Hai bản đầu của ông không chứa câu 1 Giăng 5:7 (“Chính Thánh Linh làm chứng, vì Thánh Linh là chân lý”) mặc dù nó được tìm thấy trong nhiều bản không phải tiếng Hy Lạp có niên đại từ năm 150. Erasmus muốn kèm câu này vào nhưng biết rằng tranh cãi sẽ nổ ra nếu ông làm vậy mà không có ít nhất một bản thảo tiếng Hy Lạp làm căn cứ. Sau khi xuất bản ấn bản thứ hai của mình, có lẽ là bản đầu tiên Erasmus bao gồm cả bản Tân Ước tiếng Hy Lạp và bản dịch Latin của mình, ông nói mình sẽ kèm I Giăng 5:7 vào ấn bản sau nếu có thể tìm thấy chỉ một bản thảo tiếng Hy Lạp chứa nó. Những người phản đối chuyện này ngày nay cáo buộc cách sai lầm rằng hai bản thảo (tiếng Hy Lạp có chứa I Giăng 5:7) đã được chế ra theo yêu cầu của Erasmus, nhưng cáo buộc này chưa bao giờ được xác minh, và không được đưa ra vào thời của Erasmus.
Giáo Hội Trung Cổ chỉ trích các công trình của ông vì từ chối dùng bản dịch tiếng Latin của Jerome (bản Vulgate), bản dịch mà Erasmus cho là thiếu chính xác. Ông phản đối bản dịch của Jerome trong 2 chỗ chính yếu:
Ông phát hiện rằng bản tiếng Hy Lạp đã bị sai lệch từ thế kỷ thứ 4. Ông biết rằng bản dịch của Jerome chỉ dựa vào bản thảo Alexandrian, Vaticanus, chính nó được viết vào khoảng thế kỷ thứ 4.
Ông cũng khác với Jerome khi dịch một số phân đoạn quan trọng với thẩm quyền mà Giáo Hoàng Vatican tuyên bố.
Jerome dịch Ma-thi-ơ 4:17 là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (n.d: sám hối ở đây hiểu là chịu bí tích sám hối theo giáo lý Giáo Hội Trung Cổ).
Erasmus dịch khác là: “Các ngươi hãy ăn năn, vì vương quốc thiên đàng đã đến gần.” (n.d: ăn năn ở đây nghĩa là nhận mình sai và từ bỏ đường lối cũ trong lòng, không phải chịu lễ bí tích sám hối.)
Erasmus cũng là người kiên quyết bảo vệ cả phân đoạn Mác 16:9-21 (chuyện Chúa Giê-xu hiện ra với Ma-ri Ma-đơ-len, các môn đồ, và thăng thiên) cùng Giăng 8:1-12 (chuyện người phụ nữ ngoại tình) với lòng nhiệt thành khó tìm thấy ở các học giả hiện đại ngày nay.

Quyển Kinh Thánh tiếng Hy Lạp năm 1516 của Erasmus
Quà tặng vĩ đại nhất của Erasmus cho nhân loại có lẽ là thái độ của ông với người bình dân. Trong xã hội phân chia giai cấp cách cứng nhắc mà ông sống, Erasmus là người ủng hộ không mệt mỏi cho việc đặt Kinh Thánh vào tay người bình dân. Trong khi bản dịch tiếng Latin của Jerome được dịch theo yêu cầu của hệ thống chính quyền La Mã, Erasmus dịch bản Latin của mình với mục đích rõ ràng để đặt nó vào tay những người bình dân trong thời đại mình. Đây là điều mà Giáo Hội Trung Cổ biết là nguy hiểm cho kế hoạch kiểm soát dân chúng của họ.
Erasmus được trích đã nói rằng: “Bạn nghĩ Kinh Thánh chỉ dành cho những người xức nước hoa (giới quý tộc) à?” “Tôi mạo muội nghĩ rằng bất kỳ ai đọc bản dịch của tôi ở nhà cũng sẽ được ích lợi từ nó.” Ông mạnh dạn tuyên bố rằng ông mong muốn nhìn thấy quyển Kinh Thánh trong bàn tay của “người nông dân, người thợ may, người lữ hành, và người Thổ (đế quốc Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ Ô-tô-man là mối đe dọa đáng sợ của khối Cơ Đốc thời đó).” Sau đó, trước sự kinh ngạc của các đồng nghiệp giới thượng lưu của mình, ông thêm “người thợ xây, gái mại dâm, và ma cô” vào tuyên ngôn đó (“Bởi Con Người đã đến để tìm và cứu kẻ bị hư mất.” – Lu-ca 19:10).
Biết mong muốn của ông là thấy Kinh Thánh trong tay những người bình dân của Chúa, ta không ngạc nhiên gì khi Chúa dùng bản tiếng Hy Lạp của ông làm nền tảng cho bản Kinh Thánh Tiếng Anh dịch cho người bình dân, bản King James.
Người ta nói “Erasmus đã tạo ra quả trứng mà Luther đã ấp nở.” Có lẽ câu nói này chứa đựng nhiều sự thật hơn rất nhiều so với những gì người ta thường nghĩ, vì những người Cải Chánh được trang bị bởi quyển Kinh Thánh của Erasmus, những bài viết và thái độ chống đối của ông trước sự đe dọa của Giáo Hội Trung Cổ. Về Martin Luther, ông nói: “Tôi ủng hộ Luther hết mình, ngay cả khi mục tiêu của tôi khắp mọi nơi đều dính liền với ông ấy.” Ông viết nhiều bức thư thay mặt cho Luther, và hoàn toàn đồng ý với Luther rằng sự cứu rỗi hoàn toàn bởi ân điển, không phải bởi việc làm.
Ông từ chối áp lực của cấp trên của mình trong Giáo Hội Trung Cổ để lên án Luther là kẻ dị giáo. Nếu Erasmus đã dùng sức mạnh cây viết của mình chống lại Martin Luther, hẳn nó sẽ gây tổn hại hơn rất nhiều so với những lời đe dọa bất lực của giáo hoàng và các tay sai của mình. Chỉ có sự bất đồng của Erasmus với giáo lý tiền định của Luther là khiến ông phản đối những nhà Cải Chánh bằng bút và mực.
Bất đồng lớn nhất của Erasmus với Giáo Hội Trung Cổ là ở giáo lý sự cứu rỗi bằng việc làm và những giáo lý khác của họ.
Ông dạy rằng sự cứu rỗi là vấn đề cá nhân giữa một người với Đức Chúa Trời và chỉ bởi đức tin. Về hệ thống cứu rỗi của Giáo Hội Trung Cổ, ông than phiền “Aristotle đang quá thịnh hành đến nỗi chẳng còn thời gian trong nhà thờ để giải thích tin lành.” “Tin Lành” mà Erasmus nhắc đến là gì? Chúng ta hãy để ông ta tự nói cho mình.
“Hy vọng của chúng ta là ở lòng thương xót của Đức Chúa Trời và thành quả của Đấng Christ.” Và Chúa Giê-xu Christ ông nói: “Ngài …đóng đinh tội lỗi chúng ta trên thập tự, và đóng ấn sự cứu chuộc của chúng ta bằng máu mình.” Ông mạnh mẽ nói không bí tích nào của Giáo Hội là cần thiết cho sự cứu chuộc của cá nhân. Ông nói “cách đi vào thiên đàng là con đường của tên trộm ăn năn, chỉ đơn giản nói, ý Cha được nên. Thế giới đã bị đóng đinh trên thập giá với tôi, và tôi với thế giới.”
Ông rất kính trọng hệ phái A-na Báp-tít. Ông nhắc về họ từ năm 1523 mặc dù chính ông hay được gọi là “người A-na Báp-tít duy nhất của thế kỷ 16”. Ông nói rằng người A-na Báp-tít mà ông quen biết hay gọi mình là người Báp-tít. (Erasmus cũng là người đầu tiên dùng thuật ngữ “cơ bản” – fundamental)
Vì vậy, chúng ta thấy rằng khi Erasmus qua đời vào ngày 11 tháng 7 năm 1536, ông đã sống một cuộc đời khó có thể được coi là tấm gương về một giáo dân tốt của Giáo Hội Trung Cổ. Nhưng có lẽ lời khen tốt nhất, dù được che dấu, về tính độc lập mà Erasmus được nhận đến năm 1559, 23 năm sau khi ông mất. Đó là khi Giáo Hoàng Paul IV đặt những tác phẩm của Erasmus vào danh sách những quyển sách cấm giáo dân của Giáo Hội Trung Cổ đọc.
Người dịch & Tổng hợp: Richard Huynh
Bài Tham Khảo
[1] Theo “The Answer Book – A Helpbook For Christians”
https://www.chick.com/information/article?id=was-erasmus-a-good-roman-catholic
[2] Church History – Desiderius Erasmus: The Man Who Laid the Egg… | Facebook